Friday 27 January 2012

“Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,”


Suy niệm Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Thường Niên Năm B 05.02.2012

“Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,”
“Đời dài, mới hết nửa sầu thương.”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Mc 1: 29-39

Dài ngắn đời người, làm sao anh đi hết. Sầu thương nửa vời, tôi nghĩ chỉ thế thôi. Có nghĩ hoặc có đi, cũng khó lường con đường Chúa đã đi qua như thánh Máccô vẫn ghi lại ở trình thuật.

Trình thuật thánh Máccô ghi, là ghi về chốn miền Chúa đặt chân đến. Trước nhất, là xóm làng nhỏ bé ở đó có dân con của Ngài sẻ san hết mọi sự, mà vui sống. Dân làng tuy rất nhỏ, nhưng vẫn cùng nhau lao động trên vạt đất không do mình sở hữu, bởi thế nên cũng nghèo. Và, giá trị phần đất lao động cũng lại tuỳ khoảng cách nơi mình sinh sống. Và, tuỳ đường dài rong ruổi ngày nhóm chợ. Và, vụ mùa đạt được, hầu hết là lúa hạt, dầu ăn và nho trái. Sản phẩm đạt được, hầu hết là hạt giống, dầu ăn với nho trái để làm rượu. Thành viên gia đình lao động đều rất vất vả thời cao điểm. Và, cao điểm thời làm lụng lại là lúc để người người vui tươi gặp gỡ. Bởi thế nên, mới có câu: “Ta hãy đi nơi khác, đến làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” (Mc 1: 38)

“Làng xã chung quanh”, là đất miền khá rộng, có dân cư tự mình quản cai, khai thác chuyên xử lý. Quản trị hay xử lý, không là việc độc quyền của riêng ai. Cũng chẳng là trọng trách chỉ lo mỗi chuyện đạo. Ở nơi đây, luôn có các buổi tập họp dân quê để làm những việc như thế. Ở nơi đó, cần có các nhà lãnh đạo (tức các kỳ mục mà tiếng Hy Lạp gọi là Komarkes) và đám trung gian (tức ký lục biết đọc và biết viết gọi là komogrammateis). Không phải làng nào cũng có những vị cùng một kiến thức như thế; nhưng, nhiều làng gộp lại mới có được một vị. Các vị này còn phải lo cả chuyện chính trị ở địa phương. Các vị ấy có quyền lập văn bản chính thức, cùng đạt thỉnh nguyện thư gửi giới chức có trọng trách về luật. Là, người trung gian/môi giới, chứng nhân lẫn kế toán, vv…                  
Có người hỏi: dân cư nơi ấy thế nào? Là dân làng không thay đổi, họ giống nhau ở nhiều điểm dù có khác biệt về văn hoá. Họ có mô hình hoặc mẫu mực văn hoá của dân quê. Đó là mẫu mực cuộc sống, chứ không phải sự việc do các nhà làm luật, ngôn sứ hoặc lĩnh đạo tôn giáo áp đặt lên mọi người mà họ  vẫn muốn. Dân con miền Galilê, không có chứng tích viết bằng ngôn từ mình tạo dựng. Nhưng, vẫn sống mật thiết với đất đai và loài thú. Sống, là sống theo khuôn khổ gia đình. Có, sinh hoạt liên hồi tiếp diễn. Sống, là biết theo đường lối rất uyển chuyển. Biết tin tưởng lẫn nhau cũng như đặt nặng tương quan với người khác. Đôi lúc họ cũng ngây thơ, sống thành nhóm/thành tổ trong căn hộ nghèo nàn. Sống trong sinh hoạt hỗ tương với thôn làng khác, gần gũi với súc vật.

Rất nhiều lúc, họ cũng trở nên thuần thành do công việc có khuôn khổ. Có kỳ vọng tuy khá thấp nhưng cũng tạo kinh ngạc lạ lùng. Họ vẫn im lặng chấp nhận, tin tưởng. Con cháu trong nhà chỉ biết chơi đùa nghịch ngợm nhưng vẫn biết nguyện cầu cùng Đức Chúa. Vẫn có bệnh, vẫn nghỉ ngơi chung đụng với cha mẹ, nhà cửa cùng vật dụng, môi trường, cảnh trí nơi nào cũng ảnh hưởng lên chính họ. Chẳng ai còn bỏ làng xóm đi nơi khác nữa. Bởi, khi đã rời bỏ gia đình là có lỗi nặng với đất đai. Có gần khu thị tứ, nhiều người cũng chẳng cải thiện được cuộc sống hoặc thích nghi cuộc sống mới.

Quê miền đồng nội Do thái, khác hẳn thôn làng mọi xứ sở. Ở nơi đó, có khác biệt từ thẩm quyền, đến mức độ hiệu năng và khoảng cách. Thôn làng nào cũng cần nước để sống sót. Nơi nào có nước mưa, nước nguồn để uống, thì cuộc sống sẽ khá hơn. Chẳng ai có ý nghĩ cứng ngắc như đá tảng về “quê miền đồng nội”, hoặc thôn làng người khác sống. Lại có thời, Hội thánh vẫn sáng giá ở đồng quê. Đồng hồ nhà thờ ở giữa làng, là dấu chứng Chúa hiện diện. Có thánh hội tạo ảnh hưởng lên nếp sống của giáo dân. 

Về chuyện này, nay nghĩ đến chốn miền nhiều nơi thiếu linh mục trầm trọng. Nhiều làng mạc thu gọn một mối với giáo xứ. Nhiều xứ đạo hoàn toàn do giáo dân trông nom, lâu lâu mới có linh mục ghé viếng. Chính vì thế, dân quê mới thấy mình như đàn con bị bỏ chợ. Có nơi, con cháu trong làng chẳng thiết gì đến Giáo hội. Tuổi trẻ nay để mất cả phương hướng lẫn tình thương. Và, cuộc sống nói chung không theo mẫu mực Giáo hội định ra nữa. Và, khi thế hệ nối tiếp lớn lên, từng đoàn và từng đoàn người cứ thế rời bỏ giáo hội lẫn thôn làng yêu dấu ấy.

Làm sao Chúa lại chọn thôn làng xứ miền Galilê để đặt chân đến?

Trong đời người, bao giờ cũng có nơi để người người chọn chỗ mà lui tới và sinh hoạt. Và quanh đó, còn có thôn làng kề cận, vẫn chung vui. Thật ra, nhiều người cũng chẳng biết hoặc chẳng nghĩ mình sẽ làm được gì như vẫn làm ở phạm vi nhà mình. Thành thử, chuyện ta cần nghĩ, là không nên nghĩ đến câu hỏi rất khó trả lời. Bởi, câu hỏi vượt tầm tay mình hiểu biết. Bởi, đó là ý nghĩ mênh mông không biên giới, như bầu trời. Chỉ mỗi điều, là: ở nơi đó, người người đều có cảm giác như vào rừng. Vào chốn miền mà mọi người có khuynh hướng gọi tên “thung lũng đầy tiếng khóc”. Chốn miền cần hát vang kinh Kính Mừng. Nam nhân thường coi đó như nơi nguyện cầu, để rồi khi thần chết đến, Chúa sẽ giúp mình kềm chế nó. Các nữ lưu cũng biết điều đó nên chỉ đến đó khi nam nhân ép mình lui tới hoặc ở lại.

Nhưng vấn đề là hỏi rằng: Chúa về miền thôn dã, để làm gì? Câu trả lời rõ nhất, chính là xứ miền quanh Galilê có người lui tới. Ngài đi quanh khắp chốn, và đến bất cứ nơi nào Cha gửi tới. Tức, xứ miền Chúa Cha muốn mọi người trở thành con của Ngài. Và chốn ấy, là nơi có thể chẳng người con nào thích đến. Chẳng ai muốn bén mảng hoặc tới lui như làng mạc hoặc rừng hoang thôn dã ta thanh tẩy. Chỉ nơi đó và nơi đó thôi, Chúa mới sờ chạm mọi người và đổi thay con người họ. Về nơi hoang dã, tất cả rồi ra sẽ là con cái Chúa.

Sách Xuất Hành kể truyện Môsê cũng có đoạn nói về nơi dân dã, chốn rất hoang. Có bụi rừng cháy sáng. Có, Môsê hỏi tên bụi rậm để định nghĩa rừng thiêng hoang dã, nhưng không thành. Và, chẳng ai tìm ra được tên gọi ấy. Đó, là bài sai Môsê nhận lĩnh ra đi mà kể lại cho người Ai Cập biết dân con người của Chúa sẽ trở về nơi hoang dã. Thế nên, khi Môsê nới với chốn hoang sơ bụi rừng rằng ông có là gì đâu mà phải như thế? Và, Bụi Rừng đáp trả, không bằng định nghĩa lý lịch Môsê, nhưng bằng hứa hẹn: Ta sẽ về với con, nên chớ sợ. Bởi, con không là người một mình sống đời hoang dã. Bởi, Ta cũng đến đó với con thôi.

Hoang dã hôm nay, tuy không là chốn miền người người sinh sống với lao động. Mà là biểu tượng của chốn miền mình am tường và cưỡng chống nhưng vẫn đến dù không rõ mình còn muốn ở đó nữa hay không. Chúa kêu gọi người người từ chốn bụi rừng bừng cháy để vào nơi dân dã. Là, chốn duy nhất mà chất giọng và lời Chúa được mọi người nghe biết. Ở đó, chẳng có gì để mình và người người khả dĩ tạo lập chính con đường để mình đi.   
  
Hãy cứ đi và cứ vào nơi hoang dã, mà gặp Chúa!
Và, như nhà thơ ngoài đời cũng đã diễn tả ý tưởng cùng lập trường, rất tương tự:

                        “Tôi đến đêm xưa, em vắng nhà,
                        Trăng vàng, mây bạc, sầu như hoa.
                        Tôi từ viễn phố rời chân lại,
                        Chỉ thấy sương nhiều như lệ sa.”
                        (Đinh Hùng – Đường Khuya Trở Bước)

Nhà thơ đời ngâm nga lời ca trống vắng. Trăng vàng mây bạc cuốn lôi người “từ viễn phố, rời chân lại”, dù mưa sa. Kể ra, thì chưa đi chưa biết chốn dã hoang bừng cháy nỗi niềm Chúa mong đợi mọi người. Trông và đợi người người ra đi. Đó, cũng là ý niệm Chúa đi “hết dặm đường” để dân con người người rày cảm kích.         
                                 
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh.
Mai Tá phỏng dịch. 

Saturday 21 January 2012

“Anh gục đầu lên trang sách ước,”


Suy niệm Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Thường Niên Năm B 29.01.2012


“Anh gục đầu lên trang sách ước,”

“Chờ nghe máu chuyển một dư thanh.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mc 1: 21-28

            Sách ước năm xưa, anh gục đầu. Dư thanh máu chảy, chờ nghe mãi. Sách ước năm này, Thày định ước. Ghi vào trình thuật, rất sử xanh.

            Sử xanh, thánh nhân ghi là ghi lại Lời Chúa dạy có quyền uy toả sáng từ nơi Ngài. Lời Chúa dạy, là giáo huấn Ngài tích tụ không từ một trường lớp/sách vở nào, nhưng là bẩm sinh do tự Cha. Ngay từ đầu, giáo huấn của Đức Chúa do tự Cha là những điều mới mẻ khiến người nghe sửng sốt đến kinh ngạc. Và, người người xưa nay công nhận mình chưa từng nghe biết những điều như thế.

            Biết như thế, nhưng vẫn tự hỏi giáo huấn mọi người học được nơi Ngài gồm những gì? Đó có là những điều được thánh Máccô trình thuật lại trong Tin Mừng vào bốn thập niên sau ngày Chúa chết và sống lại chăng?

            Ngay từ đầu thế kỷ, điều Chúa huấn dạy được phổ biến rộng sâu qua hình thức truyền khẩu như chứng tích đáng tin cậy không thua gì lề luật viết thành văn. Và còn là, bằng chứng hiển nhiên, hiếm hoi và quí giá như tài liệu giáo dục do các bậc thày nhà Đạo chuyên huấn tập trí tuệ để giúp người nghe ghi tạc lời Ngài như án lệ mà các bậc thức giả trong Đạo từng chỉ dẫn, lẫn dắt dìu. Nên nhớ rằng, dân con thánh hội thời tiên khởi hầu hết đều là các vị chưa biết đọc cũng chẳng biết viết cho phải phép, nên truyền khẩu chính là hình thức chuyển tải phù hợp nhất với mọi người.

            Nhiều bằng chứng cho thấy, ngay đến thánh Phaolô cũng gửi đến dân con nhà Đạo hai bản văn quan trọng để giáo dục thành viên cộng đoàn Corinthô biết đường hồi hướng trở về qua phương thức học thuộc lòng những điều thánh nhân dỗ dạy. Đó là lúc thánh nhân sử dụng nhiều phạm trù truyền thống năng nổ như: cụm từ “truyền lại” và “lãnh nhận”, hệt như trong thư gửi giáo đoàn Corinthô, có nói: “Trước hết, tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì lỗi tội của chúng ta, như lời Kinh Thánh viết, Ngài được mai táng và ngày thứ ba đã trỗi dậy và hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai như Sách Thánh từng ghi chép.” (1Cr 15: 3-5)

            Trong cùng chiều hướng như thế, khi thánh nhân trích dẫn lời Kinh Thánh đều vẫn nhấn mạnh: “Như Kinh Sách từng viết”. Cụ thể như, đoạn thánh nhân nói về “Tiệc Thánh Thể”, sau đây: “Thật vậy, điều tôi lãnh nhận từ Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em, là: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thày, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thày vừa làm để tưởng nhớ đến Thày." Cũng thế, cuối bữa ăn, Ngài nâng chén nói: "Đây là chén Máu Thày, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thày vừa làm để nhớ đến Thày." (1Cr 11: 23-25)

            Hai đoạn trên, được coi như khẳng định căn bản của lòng tin và như chứng từ nền tảng cho mọi nghi thức phụng vụ. Đó là ký ức truyền khẩu về giáo huấn Chúa từng dạy. Thế nhưng, vấn đề là: giáo huấn Chúa dạy các thánh thuộc loại hình nào?

            Rõ ràng, phương thức Chúa dùng để giáo huấn dân con mọi người lại đã không đạt tầm hiểu biết của người nghe ở Caphanaum như thánh sử Máccô xác nhận: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài, vì Ngài giảng dạy như Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.” (Mc 1: 22). Khi giảng dạy, Ngài không làm như mọi người là: trích dẫn lời của ai, về bất cứ việc gì. Ngài sử dụng chính Lời lẽ/ý tưởng của riêng Ngài. Đó là nguồn tư tưởng có một không hai, xuất tự nơi Ngài. Là, phương thức Ngài chuyển tải chính Con Người Ngài.

            Cụ thể hơn, khi thánh Máccô viết: “Ngài giảng dạy như Đấng có thẩm quyền” thánh nhân sử dụng cụm từ bên tiếng Hy Lạp “exousia” có nghĩa như một “trợ lực”, đồng thời lại hàm ngụ ý nghĩa “Từ khởi thuỷ…” như trong sách Khởi Nguyên vẫn thấy viết.  Nơi giáo huấn của Ngài, điểm độc đáo ít thấy là cung cách truyền lực cho người nghe có khả năng thực thi điều mình nhận lãnh răn dạy. Giáo huấn Ngài dạy, không thể xếp hạng theo tiêu chuẩn nào hết. Cũng không có hình thức lẫn khuôn khổ nào giống như thế. Bởi, Ngài không giảng dạy bất cứ truyền thống nào vẫn có xưa nay. Ngài chỉ liên hệ đến người nghe, là con dân mọi thời tức chúng ta. Tất cả, vẫn chỉ là “lời dạy tiên khởi” trước sau không thấy ai từng làm thế. Cũng chẳng bắt chước từ mô hình nào hết. Tư tưởng Ngài đưa ra, vẫn là ý tưởng độc đáo không ai có.  

            Trình thuật, nay thánh sử cho thấy chuyện xảy ra là ở Caphanaum. Caphanaum ư? Nói thế, có nghĩa rằng: phải chăng Đức Chúa và/hoặc thánh sử Máccô từng sống ở Caphanaum sao? Có thể lắm. Gần đây, nhiều nhà chú giải cho rằng thánh Matthêu, Máccô và chính Đức Giêsu có lúc cũng từng dừng lại ở Caphanaum. Caphanaum tức Kefer Nahum- là thôn làng mang tên ngôn sứ Nahum, có chừng không đầy 1500 người sống ở đó. Thánh Phêro từng sống ở đó, và Đức Giêsu cũng thường lưu lại và có thể cũng có căn hộ ở tại đây. Chính vì thế, Ngài gọi đó là thôn xóm của Ngài. Chính thực ra, Ngài là Giêsu thành Caphanaum, cũng rất đúng.

            Nhiều chứng tích cho thấy: vào thế kỷ đầu đời, dân con Chúa sinh sống ở đó cũng rất lâu. Ngay nhà của thánh Phêrô có lẽ là nơi hội họp/gặp gỡ cũng rất thường của dân con đi Đạo vào đầu thế kỷ, chung quanh thập niên 60, thôi. Khai quật Qumran cũng phát hiện ra một vài bình vại tẩy uế có niện da95i từ cuối thế kỷ thứ hai và đầu thế kỷ thứ ba. Và, cũng thấy có nền móng cơ ngơi xuất hiện ngay từ thế kỷ đầu. Và, có nhiều kỷ vật có đề tên “Phêrô” nữa.

Đọc Tin Mừng, người đọc sẽ ngạc nhiên không ít khi thấy 90% nội dung trình thuật thánh Máccô đều thấy có trong Tin Mừng Mátthêu. Nói đúng hơn, 50% nội dung Tin Mứng thánh Mátthêu đã ghi rõ từng lời được viết trong Tin Mừng thánh Máccô, là bản văn viết sớm nhất trong các Tin Mừng. Vậy, nếu thánh Mátthêu là người Do thái nói được tiếng Hy Lạp theo thổ âm Caphanaum, thì sao thánh nhân giữ được văn vẻ của thánh Máccô là nguồn gốc Tin Mừng? Phải chăng thánh Máccô nối kết nhiều với Caphanaum? Các nhà chú giải như F. Moloney công nhận rất có thể là như thế. Tác giả cho biết Caphanaum là chốn miền gấn với Giêrusalem, theo nghĩa này.      

“Người đến dùng bữa tại nhà ông…” (Mc 2: 15), tiếng Hy Lạp viết: “en to oikia autou”. Nhà đây là nào vậy? Nhà của Lêvi hay của Chúa? Điều này được thừa nhận không phải như lời kể mà như một khẳng định bảo rằng Đức Giêsu cũng có nơi ăn chốn ở tại thôn làng này. Các nhà chú giải lại bảo đó là nhà của Lêvi, nhưng xem ra các vị nói như thế là do ảnh hưởng từ Tin Mừng thánh Luca. Tuy nhiên, Lêvi để lại hết mọi thứ, trước khi lên đường theo chân Chúa! Theo ngôn từ ở Tin Mừng thánh Máccô, người đọc được khuyến khích để tin rằng Đức Giêsu đã lập buổi tiệc chào đón ngay tại nhà Ngài. Caphanaum chắc chắn là trung tâm mọi sinh hoạt mục vụ tại Galilê –căn cứ điạ mọi hoạt động mang tính mục vụ.

Thánh Mátthêu và thánh Luca lại vẫn nói: Chúa không có đến chốn miền nào để gối đầu. Có lẽ hai thánh sử khẳng định như thế là muốn nói đến giai đoạn cuối trong hành trình rao giảng của Chúa. Là thợ mộc ngành thủ công, có thể là Chúa có công việc đặt địa bàn cơ sở ở Caphanaum. Và, có lẽ cũng ở nơi đó, Ngài đã gặp đồ đệ Ngài.

Xem thế thì, khi mọi người đục một lỗ trên mái nhà để đưa người liệt xuống cho Chúa chữa, thử hỏi nhà ấy có phải là nhà của Chúa không? Khái niệm về Đức Giêsu như công nhân nghèo lang thang đây đó để giảng rao, có lẽ không đúng lắm. Đọc Tin Mừng về nơi ăn chốn ở của Đức Chúa, có lẽ cũng nên thận trọng đừng đem ý niệm sở hữu tài sản ra khỏi nhận thức về các gia đình đông con vẫn thấy có nơi các nền văn hoá Trung Đông, vào thời đó.

Nói cho cùng, có lẽ ít ra cũng nên nghĩ rằng: Chúa cũng có nơi chốn bình thường để Ngài lưu lại sau những ngày rong ruổi giảng rao. Và, nơi Ngài ở, chắc chắn được dân chúng biết rõ.

Nói cho cùng, thật cũng khó mà trở thành nhà giảng dạy độc đáo. Có quyền uy. Nhất thứ là khi đấng bậc chuyên giảng dạy lại cư ngụ gần gũi với người nghe. Bởi thế nên, trường hợp của Đấng Giảng Dạy như Đức Giêsu, đích thực là như thế. Rất đặc biệt. Độc đáo. Có một không hai.            

Trong tâm tình cảm nghiệm như thế, có lẽ cũng nên về với thi ca mà ngâm nga những lời, rằng:



                        “Ngào ngạt hương tay một vĩ đàn,

                        Bàn tay hoa nở trắng không gian,

                        Bước chân Người tám thu hò hẹn,

                        Ôi đoá hồn say, phím ngọc lan.”

                        (Đinh Hùng – Đàn Thu Tay Ngọc)



Thi ca hay Tin Mừng, hẳn vẫn nói lên những tình tự vĩ đại của các đấng bậc có “bàn tay nở trắng không gian”. “bước chân người tám thu hò hẹn”, tức “những đoá hồn say phím ngọc lan”. Phím ngọc lan hay lan ngọc, vẫn là tình tự được giảng dạy xưa nay, rất mai ngày. Ở mọi nơi. Mọi thời. Mọi nơi chốn rất thiên thu. Nghìn trùng.

                     

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh.

Mai Tá phỏng dịch. 

Saturday 7 January 2012

“'Tuyết xuống phương nào, lạnh lắm không?”


Suy niệm Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên Năm B 15.01.2012

“'Tuyết xuống phương nào, lạnh lắm không?”
“Mà đây lòng trắng một mùa đông.”
                                              (dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương).
Ga 1: 35-42
            Tuyết rơi, có rơi xuống mười phương hay tám hướng đi nữa, vẫn cứ lạnh. Tuyết vẫn lạnh, còn hơn cơn bão của “lòng trắng một mùa đông” khi hội lễ Chúa Giáng Hạ vừa mới dứt. Và nay, người người về lại với mùa thường niên để rồi sẽ bước vào mùa Chay tịnh, có trình thuật rất sưởi ấm.
            Trình thuật, nay thánh sử ghi về sứ vụ công khai của Đức Giêsu luôn sưởi ấm con người bằng tình thương yêu cứu độ. Trình thuật, thánh sử viết ngay ban đầu về nhận định của thánh Gioan Tẩy giả khi thấy Đức Giêsu đi ngang: “Này là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1: 36).  Qua nhận định này, thánh Gioan Tẩy Giả xác nhận vai trò của Chúa trong công trình cứu độ, Chúa Cha gửi. Nhận định ấy, được diễn bày vào tuần tới, ở các bài Tin Mừng do thánh Mác-cô ghi. Thế nên, đây là dịp tốt để người người tìm hiểu ý-lực được thánh Máccô làm nền cho Tân Ước, để ta hiểu.
            Với thánh Máccô, Tin Mừng là tin rất mừng gửi đến dân con Chúa sống ở Rôma, ít năm sau ngày Giêrusalem bị đập phá. Đó, là lúc dân Chúa bị thúc ép làm nô lệ đến cùng tột, để rồi cũng chết khổ nhục như Thầy mình. Đó, cũng là lúc dân-Chúa-chọn bị bách hại đủ điều dưới chế độ đầy bạo lực của đế quốc Rôma tàn ác. Nhưng, trình thuật thánh Mác-cô vẫn viết theo chiều hướng tư riêng, sâu sắc không bị ảnh hưởng của những hành xử từ người của đế quốc.
            Thánh Mác-cô coi thế giới ta đang sống như một pháp trường đầy sức chiến đấu. Pháp trường này, có đủ sinh lực để chống lại mãnh lực của sự chết, hệt như bi kịch cuộc đời. Thế nên, ngay ở đầu sách Tin Mừng, thánh sử đã vẽ lên cảnh trí Chúa chìm ngập trong mãnh lực của sự chết, khi Ngài dầm mình nơi sông Gio-đăng để nhận thanh tẩy, từ Gioan Tẩy Giả. Và từ đó, Ngài nhận sức sống đầy Thần Khí khi rời sông nước. Thánh nhân lại viết thêm cảnh Chúa bước vào sa mạc, chốn miền của những khô cằn đầy chết chóc không một ai sống sót; nhưng Ngài tồn tại sau 40 ngày, bởi nơi Ngài tràn đầy sự sống. Và, sứ vụ của Ngài thắng vượt sức mạnh của cái chết xảy đến với Ngài cũng như cho chúng ta.
            Thánh sử Mác-cô nhận xét cho ta thấy: ngay trong mãnh lực của sự chết vẫn có kẻ “xuất quỷ nhập thần” vẫn kềm chế được. Chính vì thế, phần đầu Tin Mừng, thánh sử kể cho nghe mọi người truyện Chúa tống khứ đám quỷ sứ khỏi người bị ma nhập, nơi đền thờ. Rồi, Chúa lại chữa lành kẻ mắc bệnh phung, một bệnh bị người đời coi như đã chết dần chết mòn. Sau đó, thánh nhân giải thích về sinh lực sự sống nơi Đức Chúa. Đó không là “mãnh lực của tà thần”, nhưng trái lại, chính Ngài đã tống xuất uy lực của sự chết bằng việc chứng tỏ Ngài mạnh hơn chúng. Ngài làm thế, qua việc chữa lành cho người bệnh, khỏi mãnh lực của tà thần mà họ từng bị uy hiếp. Ngài chữa lành bằng sờ chạm đầy xót thương. 
                          
            Đức Giêsu chứng tỏ cho mọi người thấy tình thương yêu/đùm bọc tiếp cận được mọi người sẽ mạnh mẽ hơn mọi uy lực, dù là uy lực của sự sống hay nỗi chết. Đây, là điểm nhấn mà các Đức Giáo Hoàng từ Đức Phaolô VI đến các vị về sau, vẫn gọi sự kiện này là “văn hoá của thương yêu”.  
            Kịp đến khi thánh Gioan Tẩy Giả bị vua quan giết chết, thánh Mác-cô lại kể cho người đọc Tin Mừng biết những ám muội do sức mạnh của tà thần/sự chết tập hợp và trực chỉ vào chính Chúa. Ngài thân hành đi Giêrusalem để giáp mặt với chúng. Giáp mặt không theo kiểu của giác đấu có người thắng, kẻ thua. Ở tình huống này, Ngài tuyên bố Ngài đến không phải để toàn thắng mọi chuyện nhưng là để “phục vụ”, tức cho đi trọn vẹn con người của Ngài như một bảo đảm cho tất cả những ai bị sức mạnh của tà thần sự chết ám hại. 
Ngài đã cho đi chính mình Ngài, cho mọi người, không để sử dụng theo cung cách khuynh loát, thống trị mà như món quà dịu hiền để giải thoát con người khỏi mọi loại hình quyền lực. Cách duy nhất giúp Ngài thực hiện điều ấy là bằng cách tự thăng hoá tình thương yêu đối với những người bị hãm hại. Bằng vào con đường sống đem đến cho Ngài vì mục đích cao cả ấy. Thánh Máccô cho thấy Đức Giêsu luôn chọn lập trường chống lại quyền hành và ưu đãi để Ngài có thể làm được thế. Thánh sử còn cho biết: ngay đến môn đồ Ngài cũng hiểu sai hoặc không nhìn thấy mục tiêu Ngài đi tới.
Thánh Máccô nhìn về Hội thánh như thánh hội hành xử khác với đồ đệ của Chúa. Nhưng, ngay sau khi Chúa sống lại, Hội thánh biết dấn bước theo bước đường Ngài đi ngõ hầu làm sống lên sức sống đã được Thần Khí Chúa hỗ trợ bằng mọi ân lộc của ngày lễ Ngũ Tuần. 
Với thánh Mác-cô, điểm đặc trưng nơi Đức Giêsu là tính nhân hiền, hiện thực. Đức Giêsu ở Tin Mừng thánh Mác-cô là Đấng sống trong cảnh dậy sóng, rất phong ba. Ngài không như người Galilê nhàn nhã, với tướng tá/lãnh tụ. Ngài cũng chẳng có nét vẻ anh hùng La Mã, Hy Lạp hay Do thái. Ngài chỉ trải rộng cho người sống chung quanh sự kinh ngạc, hoảng hốt đến độ khao khát sự cao cả. Với họ, lời Ngài rất phức tạp, khó hiểu. Toàn ý tưởng làm đồ đệ rối trí. Ai thích chuyện nổ dòn hoặc nệ cổ đều không ưa kiểu Ngài  giảng dạy. Họ chỉ muốn Ngài toàn thắng quan chức đô hộ, lộng hành bằng tính quả cảm dám ăn dám nói trước mãnh lực của sự dữ. Nhưng ở nơi Ngài là Đấng duy thực tiễn cao cả chưa từng thấy. Dám trực diện sự chết. Cung cách của Ngài hiền từ, êm dịu hơn mọi người. Nơi Ngài, mọi người thấy phát tiết sự hiền dịu trỗi dậy từ sự chết.
Với Tin Mừng thánh Mác-cô, người đọc không thấy nói việc Chúa sinh ra. Nhưng, tác giả đi thẳng vào việc gặp gỡ Đức Kitô trưởng thành dính dự vào những vấn đề của đời Ngài. Ngài giữ kín lý lịch. Ngài chẳng muốn làm phép lạ để tỏ ra là mình cao cả. Nhưng Ngài liều lĩnh đưa mạng sống mình ra để giải thoát sự sống rất hiền dịu là Nước Trời cho mọi người. Dù có bị hành hình đến nỗi chết, Ngài vẫn hiên ngang tiến tới. Ngài không có uy lực trên mọi người, nhưng lại có “quyền lực” trên mọi sức mạnh phi nhân bản chỉ muốn kềm chế con người.
Sống như thế, Đức Giêsu chừng như thách thức các nhóm người Do thái đã vững chãi vào thời Ngài. Thế nên, họ đáp trả bằng việc ly cách Ngài khỏi dân và cuối cùng bằng cái chết rất khổ nhục. Tin Mừng của thánh Máccô viết về Chúa là viết về thân phận của Đức Giêsu đặt trong tay của những con người không niềm tin.
Cuối cùng, Ngài chết trong bóng tối . Và lúc ấy, không có dấu hiệu của sự trỗi dậy và các phụ nữ đành bỏ về trong lặng thinh. Nhưng, Đấng Dịu Hiền đã trổi dậy, về với Galilê để tiếp tục làm sạch nhân trần khỏi uy lực bạo tàn của sự chết. Với thánh Máccô, sống lại không phải là kết hậu cho truyện kể rất sầu buồn mà đó mới chỉ là khởi đầu của truyện kể mới. Của một hiện hữu mới đem đến với Chúa, với đồ đệ và với người đọc Tin Mừng, do thánh nhân viết. Vào cuối trang Tin Mừng, thánh Máccô nói các phụ nữ bỏ chạy vì hãi sợ. Lời thánh nhân viết như thể nói với người đọc rằng: hãy cứ từ từ rồi xem sao. Vâng, có thể là, câu trả lời của thánh Máccô là: sao quý vị lại cứ nghĩ là chính tôi phải viết những đoạn kế tiếp? Và, chính quý vị mới là người lãnh trách nhiệm tiếp tục viết Tin Mừng chứ!
Nơi thánh Máccô, quả có sự hiện thực bất thường, trên thực tế. Bất thường thứ nhất là ở điểm: thánh nhân đề nghị chúng ta hãy nên lĩnh hội khá nhiều thực tế, rất như thế. Thánh Mác-cô trình và thuật cho ta thấy Đức Giêsu có thể đảm nhận trọng trách ấy. Bất thường thứ hai là, nơi thánh Mác-cô lại có sự hiền dịu rất lạ lùng. Trong khi đa số con dân Chúa chỉ có rất ít tính hiền dịu như thế. Phần đông chúng ta đều nhìn thấy được sự hiền dịu ở nơi nào sự hiện thực đang nhạt phai. Thánh Mác-cô còn cho thấy nơi Đức Giêsu, sự hiền dịu đã lên đến cực điểm ngay giữa hiện thực. Đó là nghịch thường của Tin Mừngdo thánh nhân viết. Chính đó vừa là sự chết và sống lại hiện hữu cùng một lượt.
Phụng vụ năm nay còn trưng dẫn nhiều chương đoạn của Tin Mừng thánh Máccô viết. Và, người đọc cũng còn học được nhiều điều về cuộc sống. Về, sự sống có nỗi chết . Về sự sống ngay chính giữa nỗi chết. Có người quan niệm: Mùa Chay năm nay sẽ bắt đầu hơi sớm. Nhưng nếu đọc kỷ Tin Mừng thánh Máccô viết, ta sẽ còn thấy rõ, theo chừng mực nào đó, mùa chay tịnh đã bắt đầu từ lâu rồi. Bắt đầu từ khi cuộc sống mới chớm, nơi ta.
Trong tâm tình nhận ra mùa chay trong đời người, cũng nên ngâm lên lời thơ trên để vui sống: 

                                     “Tương tư nổi đuốc thâu canh đợi
Thoảng gió ..trà mi động mấy bông..”
(Vũ Hoàng Chương – Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai?)

            Có nổi đuốc thâu canh đợi mấy đi nữa, cũng chẳng thấy rõ Mùa Chay đời người đã có đó nơi con người. Bởi, sự sống của mỗi người đều đính kèm mãnh lực của sự chết, rất dễ biết. Biết rõ khi nhận thức được sự hiền dịu của Đức Chúa, nơi hiện thực ở đời người.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh.
Mai Tá phỏng dịch.