Saturday 28 March 2015

“Tình đã chết, có mong gì sống lại”



Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh năm B 05/4/2015
Tin Mừng (Lc 24: 13-35)
Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra.Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ.Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người.17 Người hỏi họ: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy? " Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
Một trong hai người tên là Cơlêôpát trả lời: "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay." Đức Giêsu hỏi: "Chuyện gì vậy?" Họ thưa: "Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ítraen. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi.Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy."
Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?"
 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: "Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn." Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
 “Tình đã chết, có mong gì sống lại”
Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn”.
(Dẫn từ thơ Trần Dạ Từ)
Mừng Sống Lại, ta không chỉ loanh quanh việc gợi nhớ. Nhớ giây phút Chúa sống lại, đánh động tâm can đồ đệ, thôi. Nhớ Phục sinh, là nhớ rằng ơn cứu độ đã ảnh hưởng lên cuộc sống và niềm tin của con dân. Nhớ Phục sinh, còn là nhớ lời gọi mời đổi mới tận gốc rễ, như đồ đệ Chúa đã làm, thời tiên khởi. Nhớ Phục sinh, không chỉ là tin tưởng và loan báo việc Chúa sống lại, nhưng còn phải tác động lên điều mình tin lên tình thương yêu, rao giảng.
            Bài đọc 1, thánh Phêrô nói đến kinh nghiệm mà thánh nhân muốn sẻ san với cộng đoàn đang nghe giảng. Là môn đồ gần cận, thánh nhân san sẻ với mọi người về giảng rao. Nhờ có kinh nghiệm, thánh nhân biết đích xác Đức Giêsu đã chết trên thập giá, nay đang sống với các thánh, trong niềm vui đầy tràn. Và, các thánh san sẻ niềm vui ấy với mọi người. Để, ai nấy cùng vui như Ngài. Với Ngài.
            Bài đọc 2, Phaolô, một Pharisêu cương nghị, từng bức bách con dân của Chúa, cũng có kinh nghiệm về sự sống lại, với mình. Và, thánh nhân đã hồi hướng trở về cùng Chúa, ngay trên đường đi Đamát. Hồi hướng trở về, thánh Phaolô đem dân con Chúa về với cộng đoàn tình thương.
            Qua kinh nghiệm, Phaolô thánh nhân đích thân thay đổi cuộc sống. Bằng vào kinh nghiệm sống lại, thánh nhân đã có thị kiến mới về mọi sự, về cuộc sống của Đức Giê-su và về thông điệp Ngài đem đến. Cuối cùng, thánh nhân đã sử dụng trọn vẹn năng lực mình có để phục vụ, theo cung cách khi trước hầu giúp đỡ mọi người biết yêu thương và dấn bước theo chân Chúa.
            Trình thuật, nay kể về “Mộ trống” như dấu hiệu Chúa về lại với cuộc sống, bình thường. Và thánh sử kể về sự kiện Maria Magdala và đồ đệ Chúa đến mộ phần, chứng kiến và tin vào Chúa Phục Sinh. Tin, là tin vào Tin Mừng, như đã viết: “Hai ông chưa hiểu rằng theo Kinh thánh: Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20: 9). Tin và hiểu, như hai vị tông đồ trên đường Emmaus, cũng được giải thích, để hiểu rõ. Tin và hiểu, là biết chấp nhận một sự thật: Chúa chấp nhận khổ đau và sống lại, quả đúng như điều được ghi trong Cựu Ước.          
            Suy cho cùng, ta hiểu Phục sinh không đơn thuần là phục hồi sinh lực cho cơ thể Chúa. Phục sinh, không là chuyện tai nghe mắt thấy. Thấy, như đã thấy Chúa bị đóng đinh như sự-kiện lịch-sử mà là sự kiện của niềm tin. Đức Chúa Phục sinh, nay sống lại để đi vào cung cách mới, của sự sống.
            Các văn bản sau ngày Chúa Phục sinh, cho thấy: Ngài không được các tông đồ gần cận, nhận thức trước. Ngài ở những nơi mà đồ đệ Ngài đi đến. Chúa Phục Sinh phải được hiểu, là Ngài mang nơi Mình Ngài, một hình thức tân tạo. Mang cung cách hoàn toàn mới mẻ để hiện hữu ở với ta. Và, cung cách mới, đó là cộng đoàn dân con hiện thân Nước Trời, ở trần gian, tức tương quan dân của Chúa.
            Đọc tiếp trình thuật, ta sẽ thấy: thánh Phêrô và “môn đồ được Chúa thương” đích thân chứng kiến Chúa sống lại, đã chạy về kể cho bạn bè nghe những điều mình “tai nghe mắt thấy”. Riêng Maria Magđala, người nữ phụ đầy lỗi phạm khi trước, nay đã dâng trọn đời mình để Chúa dẫn dắt. Chính nhờ thế, Thầy Chí Ái đã vui lòng ở lại, với chị. Với mọi người.
Với Maria Magđala, mặc khải “Chúa sống lại” là sự kiện: có thiên thần hiện diện, tức do Chúa. Và, khi ngước mắt quay nhìn, chị thấy Chúa nhưng không nhận ra. Đó là điều, khiến chị bật thành tiếng khóc trong mừng vui. Vui, vì biết rằng Chúa Sống Lại đã hiện ra với chị. Với người đời. Thế mà, chị cứ ngỡ Ngài là “người làm vườn”.
“Người làm vườn”, lời Tin Mừng được thánh Gio-an nhiều lần nhắc đến. Vườn, là chốn địa đàng, nhị vị tiên tổ từng ngã phạm (Kn 2: 23). Vườn, là nơi chôn Chúa, chốn cứu chuộc (Ga 19: 41). Vườn, là khu lưu giữ chiên đàn, Chúa nói đến (Ga 10: 1-5). Tựu trung, Chúa Phục Sinh từng gọi tên Maria Magđala để mặc khải, hay gọi tên chiên con, đều ở đây ở trong vườn.
“Thôi đừng giữ Thầy lại”, điều này chứng tỏ: dân con Đạo Chúa cứ đeo đuổi bám víu vào con người “cũ” của Đức Chúa. Trên thực tế, Đức Giêsu nay đã về với Cha, trong quang vinh. Về với Cha, Ngài hứa sẽ trở lại, nhưng theo cung cách khác. Bằng một thực thể mới mẻ, khác lạ. Và, ta chỉ gặp Ngài, nơi những người được coi là đồ đệ. Người liên kết làm một Thân Mình Chúa. Một Hội Thánh Chúa ở địa phương.
“Tôi đã thấy Chúa!”, lời kể của Maria Mác-đa-la, người nữ phụ từng phạm lỗi, rất nặng theo luật Do Thái, cũng là của phụ nữ, những người có vị thế rất thấp trong xã hội. Nhưng, với Tin Mừng, lại được ưu tiên cao. Ưu tiên được biết trước nhất, chuyện Chúa sống lại. Đó chính là mục đích cũng như ý nghĩa của sứ vụ rao báo Tin Mừng. Rao báo, không chỉ là chuyển giao triết lý của lòng tin. Mà còn là, san sẻ cho nhau những kinh nghiệm mình chứng kiến.
Kinh nghiệm được gặp và được thấy Chúa trong cuộc đời, của chính mình. Rồi sau đó, mời gọi mọi người cùng làm như thế. Mừng kính Chúa Phục Sinh, ta cũng được gọi mời cùng một cung cách như thế. Gọi và mời theo một kiểu như Phêrô thánh nhân, Maria Mácđala và đồ đệ khác. Một kiểu cách như bài đọc hôm nay.
Đọc thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô, ta đều thấy: lời mời gọi Phục Sinh là một gọi mời hồi hướng trở về, tận căn rễ. Là, thanh lọc tự bản thân, của mỗi người. Khi cử hành lễ Vượt qua, người Do Thái có thói quen đổ bỏ bánh lên men mà họ vẫn có. Thay vào đó, là bánh không men, vừa mới cất.
Thói quen đổ bỏ bánh lên men này, vì qua tiến trình lên men tạo nên bánh, men được coi là nhân tố gây lũng đoạn bột. Vì thế, thánh Phaolô khuyên ta nên mừng lễ Vượt Qua, “đừng với men cũ, là men gian tà, ác độc; nhưng, với Bánh không men của lòng tinh tuyền, và chân thật.” (1Cr 5: 6)      
Về lại bài đọc 1, từ sách Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô nhấn mạnh đến tầm vóc quan trọng của đồ đệ Chúa. Quan trọng ở chỗ, ta không chỉ rút kinh nghiệm từng trải và vui hưởng niềm vui Đức Chúa là Thầy Chí Thánh nay đã Phục Sinh, mà thôi. Nhưng còn phải sẻ san kinh nghiệm và niềm vui ấy cho càng nhiều người càng tốt. Đó là điều ta nên làm. Nên làm vì nếu  chỉ liên hoan Phục sinh thì mới có nửa phần. Mà, với người Đạo Chúa, Phục Sinh là đại lễ diễn ra hằng ngày. Là, ngày vui Chúa Sống lại, ta san sẻ với hết mọi người. Vào mọi ngày.
Lời thánh Phêrô “còn chúng tôi đây xin làm chứng”, là làm chứng về những việc Chúa đã làm. Về, việc Chúa bị bắt, hãm hại và giết đi. Về, “Thiên Chúa đã làm cho Người trổi dậy” và chúng ta, là “những kẻ được cùng ăn cùng uống với Người” (Cv 10: 40-41), vẫn là điều ta vẫn làm mỗi khi tham dự Tiệc Thánh Thể. Dự Tiệc Thánh, ta vẫn ăn và vẫn uống Thân Mình Đức Chúa Phục Sinh, quang vinh.
Vậy thì, thông điệp ta có được từ lễ Chúa Phục Sinh, là thông điệp gì? Ta có đáp ứng đòi hỏi làm con dân Đức Chúa, hay chỉ ngồi đó tham dự thánh lễ mỗi Chủ Nhật, như người dưng? Bởi, thông điệp của Chúa là thông điệp gửi mỗi người chúng ta. Gửi, để ta ra đi mà rao báo Tin Mừng Ngài đã Phục Sinh. Rao và báo, cho cho con dân Ngài biết  Thiên Chúa đã chọn Đức Giêsu đến với ta, không phải để lên án kẻ sống với người chết. Nhưng, để mọi người tin vào Ngài, sẽ được tha thứ mọi lỗi lầm, ngang qua Ngài.
Trong tinh thần mừng Chúa Sống Lại, ta hãy cúng nhau ngâm lại lời thơ trên, rằng:
“Tình đã chết, có mong gì sống lại”
Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn”.
(Trần Dạ Từ)
Sống lại, với mọi người vẫn là sống trỗi dậy từ mối tình đã chết. Tình chết với nhân-gian, người phàm hay bạn hữu thân thương ở Nước Trời, vẫn cần sống lại, mãi mãi, rất thiên thu.

            Lm Richard Leonard sj 
Mai Tá lược dịch

Saturday 21 March 2015

“Hãy duyên dáng nở nụ cười âu yếm nhẹ",



Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá năm B 29/3/2015

Tin Mừng Kiệu Lá (Mc 11: 1-10)

Mấy ngày trước lễ Vượt Qua, Ðức Giêsu và các môn đệ đến gần thành Giêrusalem, gần làng Bếtphaghê và Bêtania, bên triền núi Ôliu. Bấy giờ, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây. Nếu có ai bảo: ‘Tại sao các anh làm như vậy?’, thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay.”

Các ông ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. Mấy người đứng đó nói với các ông: “Các anh cởi con lừa ra làm gì vậy?” Hai ông trả lời như Ðức Giêsu đã dặn.

Và họ để mặc các ông. Hai ông đem con lừa về cho Ðức Giêsu, lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Ðức Giêsu cỡi lên. Nhiều người cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Ðức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Ðavít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!

“Hãy duyên dáng nở nụ cười âu yếm nhẹ",
Hạt răng đều chới với đứa ngồi trông”.
(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Sống phù hợp Đạo Chúa, người Công giáo vẫn hay hát. Hát cả khi vui, lẫn lúc buồn. “Hát là cầu nguyện, những hai lần”. Người nhà Đạo hát rất chăm. Suy tư rất nhiều. Có những bài ca làm tỉnh giấc, như bài hát ở các xứ Đạo nói tiếng Anh vẫn ca vang: “How Great Thou Art” nghe chưa được chuẩn cho lắm. Chí ít, là tiểu khúc 3 như tác giả dẫn ý: “Hân hoan tình Chúa rất bao la, chẳng ngại hồn đau” vẫn cứ là. Là, Con Một Hiền lành theo cõi chết, Ôm trọn tội người, trọn ý Cha.
Vâng, tiểu khúc trên, dù mang cả một truyền thống ý nghĩa, vẫn coi cái chết của Đức Kitô, như hành động chuộc tội, do Cha muốn.
Nhận định như vậy, tức bảo: khổ đau và sự chết của Giêsu Đức Chúa lại là giá chuộc mạng mà Ngài đã thanh trả cho bọn xấu, để ta có thể chia xẻ sự sống với Cha. Như chọn lựa, cái chết của Đức Giê-su phải được coi như hành động duy nhất làm Cha nguôi giận về tội người. Chính vì thế, mà Cha vẫn tiếp tục thương yêu loài người như khi trước.
Nghe nhạc ướt át như thế, đôi lúc làm ta sợ. Có lẽ, nên kiểm xem lời ca ý nhạc, có chuẩn hợp với nền thần học ta được dạy, không. Một đằng, thần học khẳng định rằng: tình thương yêu đặc biệt Chúa ban, rất cao sang vời vợi. Tình yêu Ngài, ngang qua mọi thăng trầm của cuộc sống, khi vui lúc buồn.
Đằng khác, khi hát, ta kể nhiều về nỗi khó khăn, buồn phiền mà Đức Giê-su gánh chịu. Xem như thế, há chẳng phải ta chủ trương: Đấng Tạo Hoá đầy lòng bao dung, vẫn đẩy Người Con Thân Yêu vào nỗi chết, có tủi nhục? Há ta coi đây như phương cách duy nhất khiến Ngài hài lòng, sao?        
            Áp dụng vào xử án, đôi lúc cũng nên hỏi: quan án có để cho đương can vô tội chết lặng trong lỗi phạm? Và như thế, Đức Chúa, vị Quan Án Tối Cao, có quyền bính gì trên sự dữ/ác thần, chăng? Đây là cách duy nhất để Ngài kiểm nghiệm sự hy sinh cao cả của Con Yêu Dấu của Ngài, sao?     
Các vấn nạn ấy, gây ảnh hưởng lên đời sống đức tin của người đi Đạo. Đôi lúc, điều này làm ta xa vời niềm tin đích thực, lâu nay thường được nhắc nhớ, rằng: Chúa trên cao vẫn thương mọi người, dù cho con người có lầm lỡ, lỗi phạm nhiều điều.
            Ngày nay, ta nghe nhiều về các nạn nhân, không còn chọn lựa nào khác, đã rơi vào bẫy cạm của lỗi phạm. Thật ra, trong nhiều trường hợp, việc ấy không do họ. Mà, do người khác đối xử không theo lẽ Đạo. Người khác, là những người có tự do trong đối xử rất “khác người”, lạ kỳ, buồn bã. Người khác đây, vẫn là người biết nhiều, hiểu nhiều.
Nhưng, đứng ở góc cạnh nào đó, ta sẽ cùng với “người khác” ấy, biểu đồng tình cho rằng: Đức Kitô là nạn nhân của thánh ý Cha. Khi Ngài chấp nhận khổ đau, và nỗi chết. Hiểu như thế, tức cho rằng: Cha vẫn muốn có hy sinh. Vẫn muốn chuộc mạng, để đổi chác lấy tội con người, hòng tha thứ?
Hiểu như thế, sẽ kéo theo ngộ nhận rằng: mình là nạn nhân của Chúa, không chừng. Nếu Cha muốn Đức Kitô phải khổ và chết, thì phía ta, sao lại buồn khi lĩnh nhận thánh giá tưởng-chừng-như-là-quá-nặng?
            Suy tư theo chiều hướng này, sẽ thêm nghi ngờ, là bài Thương khó thánh Mác-cô ghi lại, có thể đã nhấn mạnh tính miễn cưỡng của Chúa khi Ngài chấp nhận khổ ải. Quả là, thánh sử có nhắc việc Ngài ngồi cùng bàn với phường giá áo, túi cơm. Làm bạn với bọn phản phé. Làm thầy những người chối bỏ sự thật, bỏ của chạy lấy người… Nhưng không thể hiểu như thế. Không thể theo khuynh hướng này.
Bằng không, sẽ có người ngờ: thánh Mar-cô ám chỉ Chúa hoảng sợ trước cái chết ô nhục, gần kề. Và, trong chiều hướng ấy, sẽ nghĩ là: khi Ngài cất tiếng “Lạy Cha”, tức là Ngài kêu lên lời ai oán để cứu mình khỏi cơn buồn phiền, sao? Cuối cùng, hiểu theo chiều hướng này, sẽ có người nghĩ rằng: Đức Kitô nhận “làm theo ý Cha”, nhưng phút cuối, vẫn thấy như mình bị bỏ rơi trên thập giá? Không. Đó không phải là thần học.
Suy cho kỹ, hiểu theo các chiều hướng này, chắc chắn có sai sót. Đọc kỹ, đoạn Chúa chấp nhận thánh ý Cha tại Vườn Âu Sầu, thay vì hiểu theo hướng xấu, đổ riệt mọi lỗi cho Cha, có lẽ nên coi đây như một khẳng định. Khẳng định rằng: Đức Kitô một lòng chung thuỷ với đường lối Ngài tuân theo, trong hành xử với Cha. Với con người. Ngài vẫn một mực tuân phục Cha. Tuân phục đến chết. Vẫn thương yêu con người, và yêu thương đến hơi thở cuối cùng.
            Có thế, Đức Kitô mới trấn át giới chức đạo-đời, thời bấy giờ. Ngài qui chiếu khẳng định nòng cốt này, đến nỗi họ thấy không làm gì được, ngoài chuyện ra tay ám hại Ngài. Xem thế, qua việc chấp nhận cái chết trong tuân phục, Ngài hy sinh đến phút cuối. Ngõ hầu chứng tỏ cho mọi người thấy: Ngài thương yêu loài người đến cùng.
Điều này cho thấy: Chúa đã sống thực. Sống tư cách rất “người”. Vì trung thực với cuộc sống thủy chung, Ngài bị quyền lực đen tối sự dữ/ác dẫn đến nỗi chết về thể xác. Chết rất nhục.
Hôm nay, có kinh qua thống khổ của thập giá; và chết cho chính mình, ta mới nhận ra được cái giá phải trả, khi giáp mặt thực trạng của người phạm lỗi, trái luật. Và có như thế, mới sống đúng yêu cầu của Vương Quốc Nước Trời. Vương Quốc bình an và công chính.
            Tuần thánh năm nay, ta cử hành tuyên xưng mầu nhiệm sống xứng hợp Đạo. Bằng vào cử hành tưởng niệm sự sống, nỗi chết và sự sống lại của Chúa, ta cầu mong được chuyển thể từ tâm trạng sai lầm -nghĩ mình là nạn nhân do Chúa muốn ta hy sinh, đau khổ- để tiến tới trở thành kẻ có ý thức chọn lựa. Chọn lối sống mẫu mực yêu thương của Chúa, Đấng suốt đời trung thành, thuỷ chung. Trung thành trong thuần phục. Thuỷ chung trong thương mến.
            Cầu và mong, cho ta biết trân quý sự sống. Vì, có trân quý, ta mới thực sự từ bỏ thái độ tiêu cực của những người luôn nghi kỵ, chống đối. Chống Vương Quốc Nước trời, ở trần gian. Ở đây. Bây giờ. Cầu và mong, ta dõi bước chân mềm của Chúa. Biết rập khuôn bắt chước lối sống thuỷ chung, trong hành xử giữa Cha và Con. Dù, sự việc có xảy đến thế nào, đi nữa. Dù, đường đời còn lắm gian nan, khổ ải.
Bởi, có Đức Kitô là mẫu mực cho sự thủy chung, tuân phục, thì dù gặp muôn vàn khổ ải đến cùng cực, ta vẫn cứ đầu cao mắt sáng, hiên ngang lên mà chúc tụng. Chúc tụng Ngài, cả vào lúc cộng đoàn kẻ tin đang sầu buồn, than khóc ngày Chúa chịu khổ nạn. Bởi, với người dõi bước theo Chúa, sẽ chẳng có gì là tang tóc. Khóc than. Tất cả, vẫn là yêu thương. Đồng cảm.
            Đạo Chúa là Đường dẫn ta đi. Đi vào đời, còn lắm gian nan. Nhưng không nhuốm mầu tang chế. Nghĩ thế rồi, ta cứ thế mà hát hò rong chơi với những lời như thi sĩ từng hát xướng để rồi vào cuộc tưng bừng đón rước Đấng Mêshia hoà mình với muôn người, rằng:

“Hãy duyên dáng nở nụ cười âu yếm nhẹ,
Hạt răng đều chới với đứa ngồi trông”.
(Nguyễn Tất Nhiên – Bài Đầu Năm Tình Yêu)

            Nở nụ cười cả vào lúc chay kiêng, tịnh khẩu để nguyện cầu ngày Chúa đi vào với Lễ Vượt Qua nóng bỏng, đầy thách thức. Nở nụ cười, suốt đời người dù đau đớn, thống khổ để rồi sẽ “Vượt Qua” như Đấng Mêsia hoàn-tất ý-định của Thiên-Chúa-là-Cha rất thương yêu, đợi chờ trong vui cười, suốt một đời.

            Lm Richard Leonard sj –
Mai Tá lược dịch

Saturday 14 March 2015

“Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt”



Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ năm Mùa Chay năm B 22/3/2015

Tin Mừng (Ga 12: 20-33)
Vào dịp lễ Vượt Qua năm ấy, trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su”. Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông Anrê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Ðức Giê-su. Ðức Giê-su trả lời: “Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy”.

“Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: “Ðó là tiếng sấm!” Người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!” Ðức Giêsu đáp: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Ðức Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.


“Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt”
Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư
Tay quờ quạng, cầm tay vài tiếng hát
Lúc xòa ra chẳng có một âm thừa
(Dẫn từ thơ Nguyên Sa)

            Ưu tư – chót buồn trong mắt, không chỉ là nỗi buồn của thế kỷ. Tay cầm – quờ quạng, có thể là tâm trạng của nhà Đạo, vào mùa chay. Mùa chay hôm nay, có ưu tư thoáng buồn, như tâm trạng của Đức Chúa, nơi trình thuật.  
            Trình thuật thánh Gio-an hôm nay, ghi lại tình tự Chúa tỏ bày cho dân con của Ngài, để “tôn vinh Cha”. Điều mà Chúa trả lời cho người đến tìm Ngài, là: tìm Ngài, không có nghĩa chỉ nên tìm ảnh-hình bên ngoài, để nhớ vóc dáng. Như ông Zakêu, lúc đầu làm. Nhưng, “tìm gặp” Ngài, là dấn bước trọn vẹn vào với suy tư. Vào, để hiểu rõ tại sao Ngài chấp nhận khổ đau. Và, chết đi. Rồi, sống lại.
            Tựa hạt lúa miến, Chúa phải ngang qua tất cả mọi sự. Qua cuộc đời, ngõ hầu đem sự sống đến với Ngài. Với mọi người. Đây là tiến trình “tự bóc trần”, mà người Hy Lạp gọi đó là kenosis, tức: biến đổi. Biến và đổi, như hạt lúa miến. Nhìn bề ngoài, nó như bị hủy hoại. Nhưng nhờ bị huỷ, nó mới to lớn. Để rồi, sẽ làm giàu cho người khác. Nếu ta không coi và cứ chấp nhận điều đó, như cốt lõi của cuộc đời Đức Chúa, thì rõ ràng là ta chẳng thể tìm gặp và thấy được Ngài, cho đúng nghĩa.
            Và, Chúa còn đi xa hơn, khi Ngài nói: chúng ta phải suy tư về mình, như: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn, ai coi thường mạng sống mình ở đời này, sẽ giữ được sự sống, chốn miên trường.” (Ga 12: 25). Lời như thế, phần đông chúng ta thấy khó mà chấp nhận. Khó là bởi, ai cũng muốn chiếm hữu nhiều tiền, nhiều của. Muốn an toàn, yên ổn. Muốn bao đảm có được tương lai ngời sáng. Trong khi đó, Chúa lại bảo: chỉ khi nào chấp nhận bỏ hết mọi sự, và giữ mỗi tình yêu thương phục vụ người khác, thì khi đó, ta mới hoàn thành phần sâu thẳm, của chính ta.
            Phục vụ người khác, là đến với Chúa. Đến, để ra đi theo cung cách Ngài dạy:“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy. Và, Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng ở đó.” (Ga 12: 26) Dấn bước theo cung cách Chúa hành xử, là đi với Chúa. Và, có Mẹ cùng đi . Mẹ và ta, cùng tiến bước lên đồi ngọn Calvariô. Tiến và bước, đến bất cứ nơi đâu. Đi bất cứ chỗ nào. Đi và đến, chấp nhận mọi điều/mọi thứ xảy ra, với ta.
            Vấn đề thêm nữa, là: ta đã sẵn sàng ở vào tình huống “đi và đến” ấy chưa? Hay vẫn cứ lo sợ mọi sự xấu/ác thần, xảy đến với ta? Đi và đến, có là đòi hỏi lớn, từ Đức Chúa? Với Chúa, chuyện này cũng dễ thôi. Nhưng, với ta? Dù sao, cũng nên nhớ đến thư thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Do Thái, có nói rõ: “Đức Giêsu giống hệt như ta trong mọi sự, trừ tội lỗi.”
            Vậy nên, đừng nghi hoặc. Bởi, vào khi Chúa khuyên nhủ ta làm điều gì, vì Chúa cũng mang tính người như ta, nên Ngài cũng sầu buồn, lo ngại. Vì lo, mới thốt thành lời: “Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này?” (Ga 12: 27) Nhưng, điều Chúa muốn bày tỏ là lời cầu Ngài đã thực hiện sau Tiệc Giã Từ: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho đi chén này qua khỏi Con!” (Mt 26: 39)
            Bài đọc 2, ta thấy thánh Phaolô dùng lời lẽ rất xúc động, khi thánh nhân có thư cho giáo đoàn Do Thái: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức giêsu đã lớn tiếng kêu van cùng nước mắt mà dâng lên lời nguyện cầu nài xin Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết.” (Dt 5: 7)
            Mọi sự xảy đến, đều dễ xảy ra với Chúa hơn với ta. Với Chúa, chuyện chỉ xảy đến sau chuỗi ngày dài nguyện cầu, ở Vườn Dầu. Xảy vào lúc, Ngài sầu buồn đổ mồ hôi, cùng rướm máu. Hãi hùng. Hãi đến độ Ngài đã lên tiếng: “Song, không phải như ý Con, mà như ý Cha.” (Mt 26: 39) Và, thánh Phaolô, còn nói rõ hơn: “Dù là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.” Và từ đó, “Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ cho những ai tùng phục Ngài.” (Dt 5: 9)
            Chính vào lúc Chúa hoàn toàn tuân phục Cha, thì vinh quang của Cha đã khởi sắc, ngang qua Ngài. Rất chói lọi. Và, Ngài kêu lên: “Đã hoàn tất.” Với thánh Gio-an, câu này có nghĩa: khoảnh khắc có sự chết là khoảnh khắc vinh quang, về với Cha. Hạt giống có chết, mới đâm hoa. Kết trái. Đậu quả.
            “Phần Tôi, khi được giương cao khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi.” (Ga 12: 32) , giương cao ở đây, ý nói: việc Đức Chúa được đưa lên cao, trên khổ giá. Đồng thời, cũng có nghĩa: Ngài được nâng nhấc về với vinh quang của Cha. Bởi thế nên, nếu ta trọn vẹn dâng cao mình cho Đức Chúa theo cung cách tương tự, thì vinh quang Chúa cũng sẽ chờ đợi, đến với ta.
            Và như thế, hôm nay ta có muốn tìm gặp Chúa, cũng không nên theo cung cách hời hợt bề ngoài. Nhưng, hãy học đòi tìm cách thức tư riêng mà nguyện cầu. Cầu, cho ân sủng Người được thấm nhập tận phần sâu thẳm, ở trong ta. Cầu và mong, những gì ta gặp thấy, sẽ trở nên thị kiến cuộc đời. Thị kiến giúp ta sống. Nhờ Chúa nâng cao, để mọi sự trôi qua đi, là vì tình thương yêu Ngài dành hết cho mọi người. Để, gọi mời ta cùng với Ngài đi chung một lối. Đi cùng mọi người.
            Ta cũng hãy nguyện cầu, để có được lòng quả cảm và tín thác. Tín thác như Ngài đối xử với Cha. Tức, cần khám phá ra nhiều thứ. Khám phá, để rồi cuộc sống, niềm hạnh phúc và sự tuân phục giúp ta đi vào hành trình. Ở nơi đó, ta sẽ gặp thấy qui cách khiến mọi việc trôi chảy. Để Chúa hoạt động, nơi ta. Và cho ta.      

            Lm Frank Doyle sj
            Mai Tá lược dịch