Saturday 28 July 2012

“Trái tim con, đang rên siết héo mòn,”


Suy niệm Lời Ngài Chúa Nhật thứ 18 Thường Niên Năm B 05.8.2012

“Trái tim con, đang rên siết héo mòn,”
“Nên chạy đến bên Người, con kêu khấn.”
(dẫn từ thơ Hoài Châu)
Ga 6: 24-35
            Phải chăng nhà thơ nay chạy đến bên Người là vì tâm can rên siết, những héo mòn? Phải chăng nhà Đạo cũng làm thế, khi tim mình chẳng còn thấy gì hứng thú? Héo mòn và hứng thú, là hai phạm trù được diễn tả ở trình thuật thánh Gioan ghi, hôm nay.
            Trình thuật thánh Gioan nay ghi, là ghi về một sự thể có tình tiết giống ở đời. Tình tiết, về Bánh Hằng Sống rất yêu thương, không chỉ có ở Tiệc Thánh, mà thôi. Nhưng, Bánh Hằng Sống còn là Lời Ngài trải rộng trong từng giai đoạn tiến triển ở Tiệc Thánh. Và, Tiệc Ngài dọn còn dành nguyên nửa buổi để giúp người dự vui hưởng tâm tình Ngài tỏ bày, qua bài đọc.
            Bài đọc 1, trích từ Cựu Ước thường ăn khớp với Phúc Âm. Ở ngay giữa là bài đọc 2, gồm các thư của thánh tông đồ theo chân Chúa từ độ ấy, đa phần là thư thánh Phaolô được Hội thánh dùng làm cầu nối giữa Cựu và Tân ước. Thế nên, Tiệc Thánh vẫn là dịp thuận để người dự sống áp dụng Lời Ngài, trong cuộc đời.
Đôi lúc người dự Tiệc thấy cũng khó mà hiểu trọn các đoạn Kinh Sách được trích theo kiểu bốc thăm vốn vượt ra ngoài bối cảnh của Tin Mừng. Nên, đôi lúc người nghe cũng thấy khó mà áp dụng vào cuộc sống bình thường của người đi Đạo. Nhưng, nếu người đọc và người nghe chú tâm vào chủ đề từng biến đổi từ cảnh bạo lực trong cuộc sống thành động thái biết chọn sống hiền lành/tử tế, sẽ khác hẳn.
Đồng thời, trích dẫn bài đọc từ sách Cựu Ước theo kiểu bốc thăm/may rủi, có thể làm người nghe thấy cũng giống báo đài thuật toàn chuyện bạo lực, như: khuynh loát, sách nhiễu, hành hạ nô lệ, lưu đày, thánh chiến, nói chung về nền văn hoá Do thái trước sau lưu đày. Với người Do thái, toàn bộ nền văn hoá này gồm tóm trong Torah, vẫn tồn tại trong thế giới còn hoang sơ mà họ là thành phần thiểu số. Ở đó, còn nói đến Giao ước Chúa thiết lập với con ngưòi. Đến Lời Ngài hứa ban cho dân con một tương lai ngời sáng có “đất lành chim đậu”, có vương quốc Nước Trời hiền hoà do vua cha và ngôn sứ dành để.
Bài đọc 3, là trình thuật rút từ Giao Ước Mới của Chúa, đôi khi cũng pha dặm đôi nét bạo lực, như: cảnh Chúa cam chịu đóng đinh, đền thờ Giêrusalem bị phá hủy, hoặc đế quốc La Mã hà hiếp văn hoá của người Do thái ở thế kỷ cuối trước Công nguyên. Nói tóm, Giao Ước Mới cũng thấy cảnh khổ đau, sầu buồn, tàn bạo. Nhưng, thực chất của Giao Ước Mới chỉ đưa ra cách sống mới không bạo tàn, cưỡng bức.
Bằng vào cung cách mới này, Đức Giêsu và những người theo chân Ngài cũng từng trải sự sống không chỉ lúc nào cũng tích cực, nhưng có lúc cũng trầm buồn, rất nản lòng. Và, Ngài cũng thấy ở đó một dịp thuận tiện để ta suy tư về chủ thuyết duy-kỷ vốn lợi dụng người khác để làm lợi cho chính mình, tôn thờ mình. Trái lại, Ngài còn chấp nhận đường sống rất thấp để biến Ngài thành chốn hư không, trồng rỗng, không màng quyền lực vẫn chờ chực mình ở quanh đó. Và, Ngài chấp nhận chịu đóng đinh trên thập tự là vì thế. Chấp nhận, cả cái chết rất bạo tàn qua kinh nghiệm về nỗi “chết dần chết mòn” để rồi tìm ra điều tích cực hiện tỏ sự trỗi dậy từ mồ trống.
Suốt cuộc đời, Ngài chỉ nói bằng Lời thương yêu vô điều kiện. Thứ tình thương chỉ hiện rõ nơi cuộc sống trải nghiệm về nỗi chết bạo tàn hầu chọn lựa Sự Sống tích cực mà con người vẫn giáp mặt, nhưng khó thấy. Chúa từng sống trải nghiệm vẫn giáp mặt nỗi niềm chết chóc rất tiêu cực, có thế mới ban cho ta khả năng và nghị lực cùng ý chỉ để được sống như Ngài. Và Ngài chuyển đến cho ta sức sống nội tâm là Thần Khí đến ở trong ta, để ta cùng Ngài mà sống. Sống, có thời khắc của Xuân mùa bất tận, trong đó mọi người sẽ không còn sống theo cung cách bạo lực, nữa.
Đôi lúc việc chọn bài đọc không cho người nghe biết rõ tất cả ý nghĩa của chọn lựa. Nhưng nếu người dự Tiệc Thánh vẫn thường xuyên đến với cộng đoàn để cùng dự, sẽ dễ nhận ra điều này. Và, người dự sẽ còn khám phá thêm nhiều ý nghĩa hơn. Khám phá ra Chúa đang nói Lời yêu thương với ta. Và, Ngài vẫn chờ đợi nơi ta một đáp trả, tích cực. Đáp trả, không bằng câu trích từ sách cổ, nhiều điển tích. Nhưng, bằng áp dụng Lời sống động vào cuộc sống của ta, và mọi người.
Bởi thế nên, đọc Lời Chúa ở Tiệc Thánh không chỉ đơn giản đọc và hiểu mỗi nghĩa chữ của bài đọc; nhưng nên coi đó như Lời đối thoại Chúa chuyển đến với ta, để ta đàm đạo với Người. Đối thoại, là để đáp trả từ niềm tin sau khi nghe Lời Ngài dạy dỗ. Đối thoại trong im lặng, cũng là động thái đáp trả mà Chúa vẫn chờ từ nơi ta. Đáp trả, bằng niềm tin-yêu ta vẫn có đối với Chúa, với mọi người.               
Tiếng Do thái cổ xưa, được sử dụng trong Cựu ước, thường diễn tả sự đáp trả ấy bằng cụm từ “Dabar” tức “lời được thốt” bao gồm cả một ý tưởng về một sự kiện vừa khởi đầu. Ở Tiệc Thánh, nhất là phần Tiệc Lời Chúa, là sự khởi đầu của đáp trả. Theo sau đó, có lời diễn giải của linh mục hoặc phó tế muốn biến đáp trả ấy bằng hiện thực, ngay tại chỗ. Diễn và giải, không là giáo án hoặc bài giảng thuyết. Nhưng lại là nói lên quan điềm lập trường bảo rằng Lời của Chúa trong đó bao gồm rất nhiều đường lối sống Chúa đưa ra, và có nghĩa là Ngài còn chờ sự đáp trả, không phải bằng nghi thức tế tự ở buổi Tiệc, mà bằng cuộc sống thực được áp dụng vào những tuần sau đó.  
Diễn giải hoặc san sẻ Lời của Chúa, dù gọi đó là giảng thuyết hay giảng đạo đi nữa, vẫn là để cho người dự Tiệc nghe biết về đường lối sống giống như Chúa. Giống, như một đáp trả rất thân thiện, lành mạnh. Diễn giải Lời Ngài, còn để khích lệ người dự Tiệc học được cung cách biến đổi tính bạo tàn trong cuộc sống thành tính chất hiền từ/tử tế, vào mọi lúc. Hiền từ/tử tể với chính mình, người khác và với Chúa.
Chu kỳ phụng vụ suốt 3 năm, Hội thánh trích dẫn rất nhiều bài đọc. Và, kèm theo đó, có rất nhiều bài giảng thuyết khiến người nghe những là ngủ vùi, hoặc lịm chết. Nhưng, tựu trung, Chúa vẫn tỏ ra kiên nhẫn với người diễn và giảng Lời. Thậm chí, Ngài còn mong cho mọi người cả người diễn giảng lẫn người nghe giảng giải có thể biến đổi trở nên hiền từ/tử tế, rất hết mình. Ngài không vội vã ước muốn lời diễn giảng mau chóng mang lại kết quả rất nhãn tiền. Bởi, càng vội vã bao nhiêu thì việc đổi và biến cũng không bảo đảm được chất lượngt thực sự của biến đổi.
Thời nay, người người nói quá nhiều về cụm từ “đọc sách thánh”, hiểu theo nghĩa chỉ những đọc và nghe mà không theo đường lối tích cực. Tức, chỉ ngồi đó nghe tai này lọt tai khác như nghe hát nhạc kịch. Nghe rồi là xong, chẳng đánh động cũng chẳng đưa người nghe đi vào một quyết tâm. Nói cách khác, chẳng có gì bảo đảm là Lời Chúa đi sâu vào tâm khảm của người nghe lẫn người đọc để rồi khích lệ họ áp dụng vào đời sống có đáp trả.
“Đọc sách thánh” ở Tiệc Lời Chúa, lại quyết mang một ý nghĩa khác. Ý nghĩa, của sự việc giúp đỡ người nghe đi vào hiện thực. Nghe như thế, là nghe trong tư thế sẵn sàng biến đổi từ sự bạo tàn, khó chịu thành động thái chịu khó mà sống hiền từ/tử tế. Có như thế, Lời Chúa mới tiếp tục trở thành cuộc đối thoại cởi mở, giữa Chúa và chính mình. Giữa chính mình và Đức Chúa hiện diện nơi tâm người khác. Dù người đó có là Kitô-khác, hay chỉ là người “ngoài luồng”, ngoài Đạo.
Nói cách khác, “đọc sách thánh” là đọc được sự đối thoại giữa Đức Chúa và con người. Giữa con người và con người, như Kitô-khác. Đọc như thế, sẽ như thể dám cùng nhau đứng thẳng dậy mà tuyên xưng niêm tin qua kinh Tin Kính của cuộc đời vẫn tuyên bố rằng: Chúng tôi tin vào đường lối sống Chúa khuyên dạy, từ Sách thánh. Và chúng tôi sẽ tìm cách biến Lời ấy thành hiện thực, ở đời thường.
Tiệc Lời Chúa, như thế là sự thể của toàn thể vũ trụ vạn vật. Thế nên, vào giờ nguyện cầu tiếp theo sau, lời lẽ yêu cầu vào lúc ấy không còn là những thỉnh cầu lợi lộc cho riêng bản thân người cầu và nguyện, nhưng mang tính toàn cầu. Bởi lời cầu của vũ trụ không là cầu cho ông A bà B được tìm thấy sau khi bị lạc. Nguyện cầu đây, cũng không là lời cầu của vũ trụ vạn vật chỉ xin Chúa có được sự kiện lớn lao trong vũ trụ. Nhưng là lời cầu mong cho chuyện lớn trong vũ trụ được xảy đến qua đó mọi người trở nên hiền từ/tử tế , thật giống Chúa.
Nguyện cầu vào Tiệc Lời Chúa, là nguyện và cầu để vũ trụ vạn vật có được bình an, không một ai còn hằn in tính chất bạo tàn, kỳ thị. Nhưng, biết nghĩ đến người khác. Biết hỗ trợ, giùm giúp những người có nhu cầu thiết thực, ở mọi nơi. Lời cầu và nguyện ước ấy dẫn đưa người dự Tiệc hiên ngang phấn khởi để vào với phụng vụ Thánh Thể, rất hiệp thông. Xuyên suốt. Rất đậm đà tình Chúa và tình người.
Trong tâm tình đó, nay ta lại ngâm tiếp lời thơ ý nhị còn ngâm dở:

            “Trái tim con đang rên siết héo mòn,
            Nên chạy đến bên Người con kêu khấn.
            Xin Chúa thương đưa bàn tay chí thánh,
            Giúp cho con được chắp cánh cùng nàng…”
            (Hoài Châu – Nguyện Cầu)        
Nguyện cầu đây, không chỉ để chắp cánh bay cao cùng nàng, về đâu không biết nữa. Nhưng nguyện và cầu, để người người biết nghe Lời giống như Chúa, chỉ muốn hiện thực ý của Ngài, mà thôi.  

            Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh  
Mai Tá phỏng dịch

Saturday 21 July 2012

“Hãy quỳ nán lại: tiếng sao rơi,”


Suy niệm Lời Ngài Chúa Nhật thứ 17 Thường Niên Năm B 29.7.2012

“Hãy quỳ nán lại: tiếng sao rơi,”
“Khua ánh trăng xanh động khí trời.”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Ga 6: 1-15
Quỳ nán lại để khua trăng, là động thái nhà thơ kêu gọi khiến sao rơi, động khí trời. Quỳ nán lại làm trời động, là tâm tình nhà Đạo có Chúa ban “Bánh Hằng Sống” như trình thuật mô tả hôm nay, mai rày.
Trình thuật thánh Gioan, nay tả về Tiệc Thánh nơi chương 6 Tin Mừng. Ở chương này, thánh sử ghi lại những bốn phần. Phần đầu, là dẫn nhập một tư duy về “Bánh Sự Sống” theo nghĩa được kể ở Thánh Kinh người Do thái vẫn đọc. Phần kế tiếp, đi vào mầu nhiệm với ý nghĩa Chúa cho đi chính mình Ngài, vì mọi người. Phần kết cuộc, hỏi xem ta có tin chuyện đó không, vẫn là điều luôn rất cần. Cả bốn phần Tin Mừng nay liên kết bốn mốc điểm phụng vụ Tiệc ta hiện thực, gồm:  nhập lễ, phụng vụ Lời, Phụng vụ Tiệc hiệp thông rước Chúa và kết thúc bằng việc Chúa sai mọi người ra đi, vì Nước Trời.
Khởi đầu phụng vụ, cộng đoàn thầm lặng cử hành niềm vui cận kề có Chúa ngự. Bởi, tham dự Tiệc là sự kiện dân con Chúa đến với nhau với niềm an vui kề cận. Có thế người dự mới sống đời người có tương lai ngời sáng chốn mai ngày. Cùng đến với nhau mà dự Tiệc, để cảm nghiệm Đức Kitô Đấng đã trỗi dậy trong ta và với ta. Ở đây. Bây giờ. Dự Tiệc cận kề bên nhau, để biến đổi cuộc đời thật đúng cách, đạt kết quả khả quan, đẹp đẽ. Ở bên nhau mà Dự Tiệc, không là cách thức Hội thánh dùng dấu chỉ hoặc ngôn ngữ đầy biểu trưng, nhưng cố để nguyện cầu hiệp thông có Chúa ở với ta. Tham dự Tiệc, còn là nghi thức của phụng vụ hiệp thông có thi ca, có cả tâm hồn nghệ sĩ đến nhận bài sai Chúa vẫn gửi.
Phụng vụ Tiệc, khởi sự bằng nghi thức nhập định dẫn đưa người dự ra khỏi cảnh trí cuộc đời người để rồi người người sẽ đi vào cảm nghiệm sâu sắc rất thánh-hoá. Cảm nghiệm ở bên nhau, và với nhau theo lời mời của Đức Chúa. Tham dự phụng vụ Tiệc Thánh, không đơn thuần chỉ cử hành lễ tế thầm lặng/tư riêng chỉ dành cho linh mục chủ tế, mà là động thái trải rộng cho dân con Chúa đến tập họp. Phụng vụ Tiệc, là bài thơ vui khuyến khích mọi người cất tiếng ca lời đoàn tụ rất vui vầy, đầy sức sống.
Phụng vụ Tiệc, là nhạc bản rất ý nhị không chỉ do chủ tế hoặc ca đoàn trổi lên hát một mình, nhưng cả cộng đoàn là dàn nhạc có vị chủ tế tuy không hát cũng chẳng sử dụng nhạc cụ nào hết, nhưng lắng nghe âm giọng sâu sắc chan hoà điệu hát thành giao-hưởng-khúc rất hài hoà, súc tích. Theo cách thế này, chủ tế có vai trò khiến cho Tiệc đoàn tụ nên sống động, cả về tinh thần lẫn thính thị.    
            Khởi đầu Tiệc, người tham dự hân hoan tiến vào thánh đường chào mừng hết mọi người, chứ không chỉ mỗi chủ tế và đoàn tuỳ tùng thừa tác, giúp lễ. Các vị này chỉ đại diện cộng đoàn đến để cử hành Lễ/Tiệc chứ không là nhân vật then chốt của Tiệc mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, các vị trong đoàn bước lên bàn Tiệc ở trên cao có Đấng Thánh Hiền đợi chờ thực hiện Giao ước Tình Thương giữa Chúa và thánh Hội. Các vị bước lên bàn Tiệc Thánh, theo tư cách của thành viên đôi bên chứng dám dấu ấn Tình thương hằn in nơi bàn Tiệc. Và, cộng đoàn bắt đầu cất tiếng hoan ca lời vàng rất kết đoàn. Và, lời ca cộng đoàn nay vui hát là chủ đề nhiệm mầu của Tiệc hôm đó có thời khắc đặc biệt trong năm.
            Và tiếp đó, chủ tế bước vào nơi đã định hầu chứng kiến sự việc xảy đến ở trước mặt, rất vui sống. Chủ tế hướng dẫn cộng đoàn thực hiện dấu ấn thập tự hằn in trên thân mình mang ý nghĩa Chúa Vượt Qua nỗi chết để rồi Ngài đến với Sự Sống rất Ba Ngôi.
Bằng lời chào trân trọng, chủ tế mời mọi người tham dự hãy lắng nghe Lời Chúa qua câu chào hỏi trích từ thư thánh Phaolô gửi đồ đệ Timôthê: “Chúa ở cùng thần khí anh chị em!” (2Tm 4: 22). Sau đó, chủ tế còn quả quyết: “Ân sủng Đức Kitô, lòng mến của Thiên Chúa và sự hiệp nhất của Thánh Thần ở cùng anh chị em!” (2Cr 13: 13). Tiếp đến, chủ tế dùng lời chào của thánh nhân để khẳng định: “Ân sủng và bình an cho anh chị em do tự Thiên Chúa, Cha chúng ta và Đức Giêsu Kitô” (Êp 1: 2) Theo sau đó, chủ tế nguyện cầu Chúa ngự đến với cộng đoàn và để đáp trả, cộng đoàn xin Thần Khí Chúa đến với chủ tế nữa.        
Kế đến, là nghi thức “hối cải”, không theo nghĩa tự kiểm lương tâm cũng không là lời cầu sám hối, quyết xưng thú hoặc xá giải, nhưng là nhận thức mình tuy nhỏ bé vẫn gần cận và được Chúa xót thương. Bởi, người dự Tiệc nhận mình còn kém cỏi, không làm được gì một mình dù đã từng làm trong quá khứ. Duy, có Chúa mới làm mọi sự trong họ và cho họ. Nghi thức hối cải, còn mang ý nghĩa cải thiện và hối tiếc để nhận ra được sự thật là mọi người nuối tiếc chuyện đã qua.
Tác giả Timothy Radcliffe có lần từng viết: “Bằng vào động thái lấy dấu ấn thập tự, người thực thi động tác lấy dấu ấy công nhận sự yếu kém thấp hèn, đi vào quan hệ đẹp giữa Chúa và loài người. Làm thế, tức diễn tả lòng ta ao ước được về nhà cùng với Chúa.”
Thành thử, các công thức cũng như lời cầu và tuyên ngôn xưng thành tiếng ở phụng vụ Tiệc là để nhấn mạnh rằng: ta đã cùng Chúa về dự Tiệc. Mọi lời lẽ cũng như hình thức trong Tiệc/Lễ không để nói lên sự kiện người dự sắp sửa làm điều gì mà để cầu Chúa thực hiện những việc chỉ Ngài làm được để Ngài vẫn xót thương người tham dự. Bằng vào hình thức phụng vụ Tiệc, ta chứng tỏ mình đang làm rạng danh Đức Kitô là Đức Chúa hằng thương xót ta.
Bằng kinh Thương Xót, ta kêu cầu Đấng đã Trỗi Dậy hãy xót thương mọi người, không chừa một ai. Thêm vào đó, kinh Vinh Danh được trổi lên như hừng đông ló rạng một ngày mới; ngày, Chúa xót thương con người nên Ngài đem ánh sáng ban mai đến với họ. Sau đó, là một chút lặng thinh, để rồi Tiệc/Lễ được nối tiếp bằng lời cầu tụ họp người dự Tiệc. Thế nên, lời cầu này lại gọi là lời cầu thâu thập.
Nay, thì người dự sẵn sáng tham gia phụng vụ Lời Chúa. Ở đây nữa, tác giả Tom Wright đã phát biểu ở Thượng Hội Đồng Giám mục Rôma rằng: mọi người chúng ta sẽ học hỏi động thái cùng lời lẽ của Đức Maria khi Mẹ cất lời “Xin Vâng”, Chúc tụng, Giữ Trong Lòng và lúc Mẹ kề cận thập giá Chúa .
Xin Vâng, qua Kinh thánh, là ý nghĩa việc Chúa kêu gọi dân con mọi người hãy vào với tình thương đầy ân lộc. Ngài trông đợi dân con sẽ đáp trả bằng tiếng “Xin vâng” theo thánh ý của Ngài, để rồi họ sẽ “Chúc tụng Ngợi khen” mãi mãi:
-Bằng tiếng “xin vâng”, ta dùng sức mạnh của mình để cử hành Lời trong hoàn cảnh riêng tư, tuy nhiều lo âu/tư lự, vẫn cứ chúc tụng ngợi khen Chúa mãi suốt đời.
-“Giữ trong lòng”: để rồi những gì dân Chúa cảm nghiệm trong đời kề cận Chúa sẽ giữ mãi cho mình và cho người tình thân thương tốt đẹp ấy. Và, “cận kề thập giá” vẫn có Mẹ ở đó học hỏi và vâng theo ý Chúa trong mọi tình huống sầu buồn trong đời người.         
Xem thế thì, bằng vào bốn động thái trong đời, con dân người người đã khởi sự yêu thương Chúa trong mọi lúc vẫn “xin vâng”, hết lòng hết sức chúc tụng ngợi khen ơn Ngài ban phát; và bằng tấm lòng gìn giữ trân trọng mọi ân lộc để cùng tin rằng: cả vào lúc gần cận thập giá ta vẫn có Chúa phù trợ rất liên hồi.
Xem như thế, hãy lắng nghe Lời bằng sự kiên nhẫn vẫn có để Lời Ngài xuyên suốt tâm can mỗi người và mọi người khiến ta biết cách mà trân trọng ân lộc Ngài gửi đến qua sự việc lành/dữ rày xảy đến với ta, mọi ngày.
Xem như thế, hãy trân trọng những gì khiến ta sẵn sàng lắng tai nghe và tin tưởng vào Chúa, để rồi chờ đợi Lời Ngài hứa sẽ được hiện thực trong ta và cho mọi người chung sống ở quanh ta. Thế đó, là khởi đầu của những gì xảy đến với ta và mọi người. Khởi đầu, một Tiệc Thánh, cũng rất chung.
Trong tâm tình đó, tưởng cũng nên ngâm tiếp lời thơ còn bỏ dở, vẫn vang vọng hôm nào:

            “Hãy quỳ nán lại: tiếng sao rơi!
            Khua ánh trăng xanh, động khí trời.
            Gió thở hay là hoa thở nhỉ?
            Ô hay người ngọc biến ra hơi.”
            (Hàn Mặc Tử - Mơ Hoa)

Biến ra hơi. Mơ hay thực. Vẫn là, sự thực cuộc đời đầy hoa lá. Thứ lá và hoa Tình Thương khiến người người kề cận bên nhau để tỏ bày cho nhau những gì cần luyến nhớ. Suốt đời người.            
                          
            Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh  
Mai Tá phỏng dịch

Saturday 7 July 2012

“Xưa anh là kẻ nghiện sông hồ,”


Suy niệm Lời Ngài Chúa Nhật thứ 15 Thường Niên Năm B 15.7.2012

“Xưa anh là kẻ nghiện sông hồ,”
“Đây đó lan dài gót lãng du”
(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)
Mc 6: 7.13
            Gót lãng du, đâu có là gót nện của nhà thơ đi đây đó. Nghiện sông hồ, có thể là nỗi niềm của người anh, lâu rày đó đây, xuất hiện ở bầu trời nhiều dấn bước theo chân Chúa, rất lâu ngày.
            Trình thuật thánh Máccô, nay kể về sinh hoạt của các vị thánh bước theo chân Thày, hăng say mục vụ tiếp nối công trình của Chúa ở Nam Galilê. Các ngài là nhóm tông đồ đa năng, đa dạng. Có người có gốc nguồn từ xứ miền Hy Lạp như thánh Philipphê, Anrê, còn lại là người Do thái như thánh Giacôbê, Batôlômêô, Tađêô, Simôn, vv. Các đấng bậc thuộc nhóm tuyển không giỏi về học thức, cũng chẳng đạo đức như đấng bậc khắc kỷ/khổ tu, nhưng lại hân hạnh được đi theo Đấng Ngôn Sứ luôn di chuyển. Các thánh được chuẩn bị dứt đoạn với gia đình, giòng họ, xã hội cùng chòm xóm và quyết tận hiến cho Ngài.
            Một số vị như thánh Tađêo, ta được biết chỉ danh tánh, mà thôi. Còn thánh Phêrô, Giacôbê vẫn nổi danh là lãnh tụ nhà Đạo ở thế kỷ đầu. Cũng tựa như Đức Giêsu, thánh Phêrô không để lại bút tích nào để thế hệ sau này theo đó mà biết rõ. Riêng thánh Phêrô lại đã trao quyền quản cai hội thánh ở Giêrusalem cho thánh Giacôbê để đích thân khơi mào sứ vụ đặc biệt cho dân ngoại ở Syria. Các đấng bậc trổi trang về thừa sai/mục vụ phải kể đến là thánh Phaolô từng sống cùng thời với Chúa, nhưng chưa một lần giáp mặt Ngài. Thánh Phalolô cũng là tông đồ đắc lực của Chúa nhưng thánh nhân lại không ở trong cùng nhóm Mười Hai. Trái lại, thánh nhân từng bách hại người của Chúa và cuối cùng lại đã trở thành tông đồ đắc lực hơn cả. Các tông đồ của Chúa đều có chung một đặc điểm là hết lòng tin tưởng vào Thày Chí Thánh đáp lại lời kêu gọi mọi người cùng hợp tác trong rao giảng Tin Mừng.
            Thật ra, có ba nhóm tông đồ gần cận Chúa hoạt động theo kiểu vòng tròn khép kín gồm các bậc vị vọng sinh hoạt rất đắc lực. Nhóm đầu là nhóm 12. Nhóm thứ hai gồm các nữ phụ, trong đó có Maria Mađalêna, chị em nhà Lazarô ở Bêthania, cùng Joanna vợ của Chuza (thượng thư của Hêrôđê), cả Maria mẹ của thánh Giacôbê nữa. Viết Tin Mừng, các thánh sử chăm chút ghi tên các nữ phụ này và coi các bà là người theo Chúa hầu để được sẻ san lời Ngài dạy và giúp chất liệu cho thế hệ nối tiếp phục vụ Hội thánh.
Các bà là những người vẫn quẩn-quanh bên Chúa khi Ngài dấn bước vào chốn khổ hình của thập tự. Và, các bà còn là chứng-nhân đầu hiện diện ở mộ phần ngay vào lúc Chúa sống lại. Trong lúc ấy, nhóm 12 lại cứ lánh mặt vì hãi sợ, chủ bại. Với người cùng thời với Chúa, sự cộng tác của bậc nữ lưu dám để chồng ở lại nhà mà theo Chúa, đã gây tai tiếng không ít cho người ngoài cuộc. Nhưng Chúa đi ngược lại qui ước vẫn có ở xã hội thời Ngài sống.
            Nhóm thứ ba, là các vị có cảm tình với công trình của Chúa thi thoảng mới tham gia sinh hoạt để giúp Chúa, thôi. Các vị nổi danh như: Ladarô, Nicôđêmô, Zakê, Giuse thành Arimathêa, đều là đấng bậc không rời bỏ gia đình và xã hội mà các vị đang sống, mà chỉ phụ giúp Chúa một đôi lúc, thôi.     
            Tuy các bậc nữ lưu trên, tuy đã thực hiện công việc thừa-tác cho Chúa là thế, nhưng vẫn không được Hội thánh gọi là “tông đồ” bao giờ hết. Lý do là bởi, cụm từ “tông đồ” bên tiếng Do thái có nghĩa “tamid” hoặc “tamilda” tiếng Aram, không phải là giống cái. Tự vựng Aram không có từ “tông đồ nữ” và cũng chẳng có danh từ “nữ phụ làm tông đồ” để đối chọi với từ nam tông-đồ được sử dụng rộng rãi trong văn chương chữ viết của Do thái. Tuy nhiên, với cộng đoàn Phaolô, nữ giới vẫn đồng quyền về mọi mặt với nam nhân, từ việc nguyện cầu cho đến nghi tiết phụng vụ hoặc mọi công tác được ngôn sứ thi hành.
            Thời thánh Phaolô đến mãi về sau, nhóm 12 lại đã trở nên thành-phần quan trọng không thể thiếu trong Đạo. Tuy nhgiên, vai trò của các ngài chỉ mang tính tượng trưng rất tri thức chứ không có thực lực ở xã hội ngoài đời. Cộng đồng người Do thái gồm tất cả 12 chi tộc phân tán rộng, trong khi đó nhóm 12 lại vỏn vẹn chỉ gồm 12 vị chuyên chăm hỗ trợ cho thánh hội ngõ hầu giúp duy trì quyền thừa kế Chúa hứa ban cho dân Ngài. Xem thế thì, nhóm 12 lại đã tượng trưng cho cộng đồng dân tộc theo cung cách thu nhỏ kiểu “bỏ túi”, khá vi mô.
            Ý Chúa chỉ muốn thế. Ngài chủ trương tái tạo Israel gồm chỉ 12 chi tộc gọn nhẹ. Và, Ngài những muốn cải tổ niềm tin ở dân con mọi người, khởi từ nhóm 12 được tuyển chọn, giống hệt đất nước Israel nhờ vào ân huệ trinh trong, cô đọng. Chúa đã sai nhóm 12 của Ngài đi khắp chốn để truyền rao Tin Mừng Ngài đem đến; nhưng, các thánh cũng chẳng đi đâu thật xa, mà vẫn chỉ khu vực gần cận thôn làng bé nhỏ quê miền đồng nội có người địa phương thân thương sống quẩn-quanh đây đó qua nếp sống cơ bản theo khuôn thước xã hội vùng Địa Trung Hải thời cổ xưa.
Nói chung thì, các thôn làng nơi đó chỉ là khu chung sống rất bé nhỏ thật vắng lặng, chứ không là chốn thị thành phồn hoa phức tạp, đầy kích bốc. Các thôn làng nơi đó, chẳng có cao ốc với hội đường gì trổi bật nhưng các ngài vẫn đến tụ tập đều đặn, ít là vào ngày Sabát. Quây quần nơi phố chợ hoặc khu vực râm mát có cơ ngơi chỉ gồm những người gần gũi/thân quen thôi. Ai nấy quây quần quyết xây dựng một cộng đoàn mang tinh thần giao hoà mộng ước, rất phải lẽ.
Đức Giêsu chẳng hề khuyên bảo đồ đệ Ngài phải dựng xây tinh thần một Israel mới mẻ như những hội thiện nguyện khác hẳn cộng đoàn. Bởi nơi đó, đã có sẵn cộng đoàn từng hoạt động hệt như thế. Ngài không thôi thúc dân con mọi người hãy rời bỏ gia đình mà đến với làng mạc rày đây mai đó thành đám du mục chẳng định hướng. Ngài không đòi họ tập trung sinh sống theo cung cách riêng tư cá thể. Nhưng, theo từng nhóm nhỏ cộng đoàn như ta thấy. Ngài không muốn mọi người sống chuyên chăm nhiệm nhặt, tức chẳng để tâm gì về thể chất, xác phàm. Điều Ngài bận tâm là dạy họ biết lắng tai nghe sứ điệp cần thiết để được chữa lành, thứ tha và về với quyết tâm đổi mới cuộc đời. Ngài muốn dân con của Ngài kiến tạo một Israel thực sự đổi mới con người mình.
Quê nhà, họ trở về cũng sẽ là các khu vực gần cận bên nhau. Chính vì gần cận, nên phần đông trong họ sẽ đi vào quan hệ mật thiết như người gần gũi rất thân quen. Mỗi làng/xã sẽ sinh hoạt theo kiểu riêng tư dễ phân biệt, ngoại trừ những khủng hoảng mang dáng dấp tính trạng của đất nước họ. Thật khó cho người ở ngoài chịu trở về sống ở thôn làng có người cùng làng xử sự cách đôn hậu, mật thiết. Muốn được thế, người người phải tham gia nhập cư theo cung cách hiền hoà, phải lẽ. Chính đó là ý Chúa muốn sai phái đồ đệ ra đi từng nhóm đến với thôn làng để các ngài không bị ai ám hại, hoặc gây khó. Đằng khác, đi từng cặp, cũng để thực hiện sứ vụ thừa sai cho dễ hơn là chỉ một mình đơn độc, không người giúp.
Ra đi về với thôn làng hiền lành, các thánh được dặn không mang theo cơm áo, gạo tiền. Cũng chẳng bận tâm chuyện sửa soạn giày dép, áo mão hoặc gậy gộc dù đi xa. Nhưng vẫn gọn nhẹ. Giản đơn. Đi như thế, mới giống cung cách của người túng thiếu/nghèo hèn, ở trong huyện. Chẳng khó dễ, cũng chẳng gây trở ngại cho ai, dù người ấy có là giới cầm quyền hoặc những vị chỉ tính chuyện tranh giành, chấp nhất. Lệ làng về tính hiếu khách sẽ là kim chỉ nam giúp các thánh thực hiện tính giản đơn, hèn mọn, không câu nệ. Nhất nhất nơi nào các thánh đến, cũng không dừng lại lâu. Không đi quanh quất/khất thực, mất thể diện. Và, chỉ chấp nhận những gì người nhà bố thí cho ăn mặc mà thôi. Nói chung, các thánh vẫn phải ăn ở hiền lành, cư xử cho phải phép cả với người hiếu khách, lẫn kẻ ngược ngạo, bạo hành.
Đến đâu, các ngài cũng nên chuyện trò thân mật. Kể cho nhau nghe những việc được Chúa quan tâm dạy bảo; nếu cần, phải chữa lành và tha thứ theo cách thế hiền từ Thày từng làm mẫu. Và, việc chữa lành Chúa dặn, cần được tiếp tục và hành xử đầy lòng tha thứ, để người người có cơ hội gần cận Chúa. Làm như thế, mới chứng tỏ được rằng: Nước Trời đã đến với thôn làng bé nhỏ để người người hoàn thiện cuộc sống, như Chúa muốn.
Trình thuật thánh Máccô kể hôm nay, được đặt chung với trình thuật về cuộc đời hoạt động công khai của Chúa quyết đổi mới Israel như Hội thánh Nước Trời, theo ý Chúa. Áp dụng vào với thánh hội thời hiện tại, thật cũng khó. Khó, là bởi các đấng bậc chủ quản hôm nay, vẫn tự hào mình là các đấng bậc kế vị nhóm 12, nhưng lại không dám rời bỏ của cải, bạc tiền cùng những thứ xa hoa, lộng lẫy để về sống đời chân chất, mọn hèn. Vấn đề đặt ra cho các đấng bậc đang chủ trì Hội thánh hôm nay, là: làm sao sống giản dị như Thày mình đòi hỏi. Có thế, mới yêu cầu mọi người sống như mình.
Tuy là khó, nhưng không có nghĩa là thánh hội mình không có lối thoát để bắt chước Chúa và nhóm 12 chấp nhận sống bình dị như người thường ở huyện. Tức, không giàu và cũng chẳng sang, chỉ làng nhàng đủ sống. Tức, sống dễ dàng, không áp đặt cấu trúc/luật lệ nào cầu kỳ, bắt buộc phải phấn đấu. Nhưng, quyết áp dụng nguyên tắc nhập thế và nhập thể, hầu chịu hạ mình xuống để sống hoà đồng cùng các người em mọn hèn, ở trần thế. Để được thế, Hội thánh hôm nay còn phải ngang qua nhiều hành trình xuyên suốt, rất quyết tâm.
Trình thuật theo thánh Máccô hôm nay sẽ là khởi điểm với đầy quyết tâm như thế. Quyết tâm dấn bước. Vui vẻ chấp nhận đời bình dị của người bình thường ở huyện, chốn thấp hèn. Để rồi, thánh hội mình dám xác chứng với người bình thường ở mọi nơi rằng: họ mới là dân con thực thụ, của Đức Chúa.
Trong tâm tình đó, có lẽ cũng nên ngâm tiếp lời thơ vừa khởi xướng rất như trên, rằng:
            “Xưa anh là kẻ nghiện sông hồ.
            Đây, đó, lan dài gót lãng du.
            Về, chẳng có kỳ, đi chẳng hẹn.
            Như, mây mùa thu, lá mùa thu.”
            (Nguyễn Bính – Chú Rể Là Anh)
Là anh hay em, cũng một chú rể bình dị ở huyện nhà. Là, kẻ những “nghiện sông hồ”, “đây, đó, lan dài gót lãng du”. Rất mùa thu. Mùa, của những đi mà không hẹn. Về, cũng chẳng kỳ hạn. Vẫn ra đi dựng xây thánh Hội giản đơn. Bình dị, lành thánh. Tuy rất nghèo hèn, nhưng hạnh ngộ.          
            Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –
 Mai Tá phỏng dịch