Sunday 26 June 2016

“Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại!



Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 14 thường niên năm C 03/7/2016

               Tin Mừng (Lc 10: 1-1. 17-20)
               

“Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại!
Ta đi thuyền trên mặt nước long ta.
Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại!
Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta.”
(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)


Trình thuật, nay cũng đề cập đến một dại khờ. Thứ khờ dại chẳng ai muốn có, là dại và khờ của những người vẫn cứ cư xử với lời của Chúa theo thói “nghe qua rồi bỏ”. Nghe, thì cũng có nghe đấy, nhưng chẳng tha chẳng thiết chuyện đưa Lời Ngài vào hiện thực. Lời Chúa nhắn, nay chừng đã nghe quen: “lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít.”
Rõ ràng là, lời Chúa phù hợp với tình huống cuộc sống của dân con, thời tiên khởi. Là cộng đoàn nhỏ, dân con Chúa vẫn phải chung đụng sống với đoàn người hầu hết là dân ở ngoài. Những vị ấy, thường dị đoan mê tín, tin vào thuyết “định mệnh đã an bài”, khó chữa. Thời ấy, Hội thánh tương tự như hạt cải nhỏ bé; như dúm men trong bột đầy ắp niềm tin khác biệt. Khác, ở ảnh hình lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt chuyên chăm, thì lại ít. Rất ít, vào thời Chúa sống. Thời, mà dân con theo Ngài vẫn là thợ gặt quí giá nơi cánh đồng truyền Đạo, tràn ngập những đợi mong, được thuyết giảng.
Cho đi, dân con nhà Đạo mình có triển vọng và ý thức trở thành thợ gặt trong khả năng mong ước, của chính mình. Thợ gặt đích thực, không duy nhất chỉ mỗi giám mục/linh mục/tu sĩ, hoặc nữ tu, thôi. Thánh Phaolô kia, là ví dụ rất cụ thể cho sự “rồ dại” mà người ngoại vẫn gán cho dân con nhà Đạo, rất hiển nhiên. Sự dại khờ của người nghe Lời Chúa trên đây, không như nhà triệu phú được kể, chỉ muốn làm chyện thật dễ, để rồi chẳng còn tâm trí mà nhận lời mời từ Đức Chúa. Chẳng nhận làm thợ gặt cho cánh đồng đầy lúa; dù chỉ với tư cách giáo dân chân phương, khiêm hạ.
Theo sự hiểu biết của mọi người, khi lĩnh nhận ơn thanh tẩy gia nhập đàn con của Chúa, người người đều đã nhận trong bài sai Chúa ủy thác. Nhận, là quyết sống thực những điều Ngài dạy dỗ. Quyết sống và rao truyền Lời Chúa tóm gon Tin vui an bình. Tin vui, vì được dạy, là: hãy khởi đầu hành trình đưa dẫn các người anh/người chị trong cộng đoàn kẻ tin vào với cuộc sống an bình, hài hoà. Anh bình hài hòa, là sống cả với người ở bên trong cũng như bên ngoài nhà Đạo. Sống an bình hài hoà như thế, đòi hỏi các kẻ tin phải biết canh cải cuộc đời mình.
Canh cải, để sống điều được Chúa nhủ khuyên, nơi sách thánh. Canh cải, là bởi nếu không, tất cả sẽ bị phê bình chỉ trích, như Mahatma Gandhi có lần từng nói: “Tôi sẽ hứng nhận từng giọt vắn giọt dài nơi giếng rửa của Đạo Chúa, nếu tôi thấy được những người trong Đạo biết sống điều Thầy của họ khuyên bảo.”
Đây, là điều thánh Phaolô tông đồ từng khẳng định khi thánh nhân có thư cho cộng đoàn kẻ tin ở Galát: “Anh chị em hãy cùng nhau trở nên thụ tạo đã đổi mới.” (Gl 6: 14-18) Bởi, nếu không canh cải trở thành người đổi mới, thì Bí tích Thanh Tẩy sẽ không còn giá trị và Đạo Chúa sẽ kết cuộc ở cuối đường hầm, đầy tăm tối. Đạo của Ngài, đích thực là đường lối hữu hiệu giúp những ai theo Ngài, biết canh cải chính mình để trở thành người mới. Mới vừa thay da đổi thịt. Thay, như lời Đức Kitô vẫn khuyến cáo, vào mọi lúc. Đổi, để sống cuộc đời trọn vẹn, trung thực hơn. Sống trọn vẹn và trung thực hơn, với lòng thương biết quan tâm đến mọi người. Biết sống an bình, tự do.        
Rõ ràng, bằng vào trình thuật hôm nay, Chúa lại nhắc:“Các con đừng mang theo túi tiền. Bao bị. Giầy dép…” (Lc 10; 2). Nói thế, là bởi an toàn Ngài đem đến cho mọi người không nhất thiết sẽ hiển hiện nơi những gì mình đang có, như: tiền tài, nhà cửa, công cuộc đầu tư, tín dụng… An toàn thực sự không gắn liền quyền bính, chức vụ hoặc ảnh hưởng mình đang có, với người khác. An ninh/an toàn thực sự, nằm ở nội tâm con người. Không ai và không hoàn cảnh nào có thể cất nó, bỏ đi được.
Mặt khác, sự an ninh/an toàn, là cụm từ được lập đi lập lại nhiều lần trong cả 3 bài đọc. Với Isaya, thì:“Ta sẽ làm cho bình an chảy đến với nó như con sông.” (Ys 66: 12). Còn thánh Phaolô, lại vẫn chúc:“Bình an và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó.” (Gl 6: 16). Quả là, an ninh/an toàn sẽ không tùy thuộc tình hình ở ngoài đời. Nhưng, vẫn là sự an bình/an vui Chúa đã cảm nghiệm ở vườn Cây Dầu, Ngài cầu nguyện. Và, là sự an bình mà thánh Phaolô đã chia sẻ cùng với thập giá của Chúa.
Thành thử, công tác và phần vụ Chúa gửi dân con nhà Đạo, vẫn là: “đem bình an đến chốn u sầu”. Bình an của cuộc sống hài hoà không còn căng thẳng, giận hờn hoặc tham vọng làm giầu, làm lớn. Tức, vừa làm vừa reo vang những hời hợt chóng qua của tiền tài, dục vọng hoặc vật chất. Lời mời gọi nay Chúa gửi đến với các thợ gặt trần gian ở xã hội nhiễu nhương ta đang sống. Đó là lời mời khẩn thiết ta hãy dấn bước ra đi. Ra đi, mà cải hoán xã hội trần gian thành chốn tràn ngập giá trị cao quý, của Phúc Âm. Lời gọi mời mà chỉ ít người biết đáp ứng. Bởi, họ vương vấn quá nhiều vào những thứ gây lo toan, bịn rịn. 
Lời mời gọi: “Các con hãy đi!”  Tức, cứ đi mà rong ruổi chốn bụi trần. Rong ruổi, để đem Chúa đến với mọi người. Và, cùng đi. Cùng nhau rao truyền Lời Chúa. Cùng sống thực Lời Ngài dặn dò, từ nhiều năm. Và, như bẩy mươi hai môn đồ của Ngài khi trước, nay ta cũng ra đi. Đi, để rồi sẽ trở về, với lòng vui mừng hớn hở, mà nói: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng đã vâng phục chúng con.” (Lc 10: 17).
Hôm nay cũng thế, khi đón nhận lời mời từ Thầy Chí Thánh mà ra đi, ta sẽ hái/sẽ gặt thật nhiều đồng lúa chín. Đầy những người. Người của Chúa. Người, của thế giới, rất gian trần.
Lm Richard Leonard sj biên-soạn –
Mai Tá lược dịch.

Friday 24 June 2016

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 13 thường niên năm C 26/6/2016

Tin Mừng (Lc 9: 51-62)
Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên                  Giêrusalem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gioan nói rằng: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?" Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.

Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo." Người trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu."

Đức Giêsu nói với một người khác:"Anh hãy theo tôi!" Người ấy thưa: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã." Đức Giêsu bảo: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa."

Một người khác nữa lại nói:"Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã." Đức Giêsu bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa."

“Lòng ta tha-thiết đượm tình yêu,”
Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều.
Mắt lệ đắm trông miền cách biệt,
Phút giây chừng mỏi gót phiêu-lưu.”
                (Dẫn từ thơ Thế Lữ)
Phiêu-lưu, mạo-hiểm mòn bước chân, là chuyện đã đành. Phiêu-bạt đây đó làm chứng cho Lời của Chúa đâu nào thấy mỏi. Phiêu-lưu lên đường rao truyền Lời Chúa là bổn-phận Chúa vẫn kêu mời, từ ngàn xưa.
Trình thuật Lời Chúa hôm nay, mở cho thấy khoảnh khắc rất quan trọng, trong cuộc đời Đức Kitô. Gần đến ngày Ngài được cất nhắc về cùng Cha, Đức Giê-su cương quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Với Tin Mừng thánh Luca, Giêrusalem là điểm tập trung toàn bộ cuộc đời của Chúa. Toàn bộ tập trung, vì đây là nơi chốn Ngài hoàn thành công trình cứu độ. Và, cũng từ Giê-ru-sa-lem, công trình của Ngài lan rộng khắp mọi nơi, trên thế giới.
Quyết lên đường, Đức Giê-su đưa ra mẫu mực thử thách đến với ta, để ta tham gia công trình hầu chấp nhận làm mọi việc được ủy thác. Điều trớ trêu, là: ngày Ngài lên đường vào làng Samaritanô, nhiều người ở đây không tiếp nhận Ngài. Và, Ngài đi Giêrusalem, là để chấm dứt tình trạng rẽ chia, đang lan tràn. Ngài quyết phá đổ mọi rào cản chia cách mọi người. Và, đem bình an và hòa hợp đến với mọi người.
Tin mừng “đi Giêrusalem”, nhắm vào trọng tâm ý nghĩa của Tiệc Thánh, thời buổi này. Tin Mừng cũng nhằm vào sự đáp trả của mỗi người trong ta, khi Chúa kêu mời cùng Ngài lên đường. Thấy Ngài lên đường, nhiều người cũng muốn đi theo như vẫn thấy dẫy đầy ngày hôm nay. Vẫn thấy, nhiều người trong cộng đoàn dân con Đức Chúa, chỉ biết đi là đi. Chứ chẳng hiểu tại sao lại “đi Giêrusalem”. Đi như thế, có ý gì? Với Chúa. Với những người đi theo Ngài.
Có 3 loại người muốn theo Ngài. Và, có lẽ một hoặc hai người trong số này, có thái độ giống như ta, hôm nay. Thành thử, hãy xét thử xem sao, thái độ của những người dự tính đi theo Chúa. Người thứ nhất tuyên bố: Thầy đi đâu, tôi cũng xin theo! Nói là nói thế, nhưng những người theo dạng này, không am-tường thực-tế Ngài phải đối đầu. Và, câu đáp trả của Đức Giêsu làm họ không mấy hứng thú. Dấn thân làm ngôn sứ, như Ngài, tức biết mình sẽ không nhà không cửa, không chốn tựa đầu, đâu nào dám theo.
Loại người thứ hai cũng muốn đi. Nhưng, vẫn nại vào lý do khiến Chúa không thể trách móc. Để rồi, cuối cùng cũng bỏ cuộc. Và, thái độ đáp trả của Chúa thoạt nghe, có vẻ nghịch lý/nghịch thường, nhưng lại là điều kiện cho những người dấn bước theo chân Đức Ngài. Theo chân Chúa, là: hãy để lại mọi sự bỏ đó mà ra đi loan báo Nước Trời, cho mọi người. Ở đây nữa, có thể: thân phụ của người thanh niên trong trình thuật, thật sự đâu đã chết.Anh chỉ muốn chờ khi báo hiếu cho cha xong xuôi, rồi mới quyết định. Và, đây là lý do chính đáng để khước từ lời Chúa mời. Và, đây cũng là trở ngại khác, khiến người quyết tâm không thấy vững chí, mà ra đi.
Trả lời cho những người như thế, Đức Kitô chỉ muốn xem con người đặt sự việc nào ưu tiên hơn cả, ở đời mình. Và, ý Ngài là: ta vẫn được mời gọi thực hiện việc dựng xây Nước Trời, ở trần gian, ngay trước mắt. Làm xong việc ấy rồi, mọi sự cũng sẽ “bất chiến, tự nhiên thành”. Bởi, Nước Trời chính là: thế giới của sự thật, của lòng xót thương, công chính. Của tự do và an bình. Của, thế giới nhất định sẽ xẩy đến với gian-trần.
Loại người thứ ba, cũng muốn theo chân Chúa, thật đấy. Nhưng, lại vẫn phải quay về từ biệt bạn bè người thân, xong cái đã. Thái độ này, có nghĩa là: người như anh, chỉ muốn có cuộc sống vui nhộn với bà con bạn bè, mà thôi. Trong khi đó, muốn trở thành đồ đệ của Chúa, buộc lònh mọi người phải có quyết tâm. Không do dự. Lời Chúa mời gọi, là: lời mời ở đây, hôm nay. Và, lời đáp trả phải là lời ứng-đáp tự do ngay ở đây, hôm nay; chứ, không là chuyện xảy đến trong tương lai. Đề cập đến chiếc cày, là Chúa ám chỉ lời tiên tri Isaya ở bài đọc 1.
Bài đọc 1, Êlisha đáp ứng lời kêu gọi làm ngôn sứ, ngõ hầu tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm mình là: tiên tri Êlya. Đệ tử Êlisha cũng muốn giã từ cha mẹ. Và, ông cũng đã về nhà, để giết bò, đốt cháy chiếc cày, rồi tay không đến với sư phụ của mình, là Êlya. Tin Mừng Chúa, được viết không phải để ta hiểu từng chữ, theo nghĩa đen. Nhưng, thánh sử muốn để người nghe có dịp suy nghĩ về những điều Chúa đề cập.
Thật ra, thì điều thánh sử muốn nói, tức: vật chất, tình cảm và tri thức đều có thể là rào cản ngăn chặn khiến ta không thể đi theo Chúa một cách vô điều kiện. Đời người hôm nay, lại có quá nhiều thứ để ta vui chơi hưởng thụ dễ biến Lời Chúa nên nhạt-nhoà, mờ dần; chẳng còn bận tâm gì chuyện tham gia, dính dự vào đời người vốn đã có quá nhiều thứ để bận tâm, lo lắng và tiếc-nuối. Nuối-tiếc nhiều, những chuyện xảy ra, trong quá khứ; vẫn cứ lo-ngại không ít, về những chuyện sắp xảy đến, trong lai thời.
Các yếu tố nêu trên, đều khiến cuộc sống càng thêm phức tạp, trục trặc. Phần đông trong chúng ta, mới chỉ sống có phân nửa cuộc đời, hoặc đang sống cuộc đời của người khác. Chứ, chưa hẳn là đã và đang thực sự sống đời mình, cho riêng mình. Và, đó cũng là điều mà thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn Galát: ”Quả thế, anh chị em đã được gọi để hưởng sự tự do.” (Gl 5: 13)   
Sở dĩ thánh Phaolô phải nói lên điều đó, vì có nhiều vị ở nơi đây là người Do thái, đã trở lại. Và xem ra, nhiều người trong số đó chỉ muốn quay về với truyền thống Do thái giáo, thời xưa cũ. Trớ trêu thay, đối với mọi người, xưa cũng như nay, tất cả đều đã và đang lo sợ. Lo và sợ, vì mình đang có quá nhiều tự do.
Nhưng, tự do thực sự, không phải là thách thức quyền bính. Cũng không là, tự cho mình có quyền tha hồ vui thú, hưởng thụ; tha hồ phiền hà người khác. Tự do, cũng không là thái độ cứ ưỡn ngực tuyên bố: tôi có quyền mở to máy hát, chẳng cần biết rằng hàng xóm mình đang khổ sở vì âm thanh, tiếng nhạc.
Hoặc, cứ đua xe trên đường phố, chẳng sợ ai, chẳng san sẻ đường đi nước bước, với mọi người. Người có tự do đích thực, là người biết quan tâm đến tha nhân; biết để ý xem tha nhân có cần mình giúp đỡ gì không. Tự do, là biết rằng những người thân-cô-thế-cô, đang đau khổ. Là, biết đối xử với những người đó như người anh/người chị, cùng nhà.
Thánh Phaolô còn thêm: “Đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt; nhưng hãy lấy tình thương mà phục vụ lẫn nhau.” (Gl 5: 13) Tự do như thế, không là thái độ trốn tránh thực tại sống. Nhưng, biết giáp mặt, đối đầu với cuộc sống. Tự do thực, là dám nhận lãnh trách nhiệm chăm lo cuộc sống của chính mình.
Và, không đem khó khăn riêng tư của mình mà đổ lên đầu người khác. Không coi họ như mối oan khiên như con dê tế thần, chịu hết mọi trách nhiệm. Tự do, còn có nghĩa: không đeo bám vào các tiện nghi vật chất. Vào mọi sự ở ngoài, như: tiền tài, nhà cửa, chức vụ, cùng công danh/sự nghiệp, hệt như thế.
Kỳ lạ thay, người tự do đích thực sẽ làm được những gì mình mong muốn. Bởi, những điều họ mong và muốn, là: dựng xây thế giới tôn trọng sự thật. Thế giới biết san sẻ, chăm sóc lẫn nhau. Biết tạo cho nhau, sự an bình hiền hoà, trong nội tâm. Người có tự do, là người rất tách bạch, không lấy đi mọi thứ tốt đẹp, của người khác. Vì làm thế, không là san sẻ thị kiến chung, của mọi người. Nhưng, biết được khó khăn của người khác để giúp đỡ. Để, coi nhẹ khó khăn mình đang gặp.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn – Mai Tá lược dịch.

Saturday 18 June 2016

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 12 thường niên năm C 19/6/2016



Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 12 thường niên năm C 19/6/2016

Tin Mừng (Lc 9: 18-24)
Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: "Dân chúng nói Thầy là ai?" Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại." Người lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa." Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai.

Người còn nói: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy."

Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”

“Tay run-rẩy, nhưng không vì gió lạnh,
Bỗng để rơi trên cỏ nắm vàng hương.
Ta vừa thấy một linh-hồn mỏng-mảnh,
Níu vai ta, đòi trả lại yêu-đương.”
(Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Linh-hồn mỏng mảnh, là những thứ người người vẫn để rơi. Rơi gì thì rơi, đừng rơi vãi hoặc đòi trả lại yêu-đương là thứ cả người đời lẫn trong Đạo, vẫn trân-trọng.
Cảnh huống những “rơi vãi” cũng đã diễn ra trình thuật hôm này, là bối-cảnh trong đó Đức Giêsu ngồi một mình, nơi chốn vắng để nguyện cầu. Chúa làm thế, mỗi khi có sự kiện quan trọng xẩy đến với Ngài ở trần thế.
            Có thể, nhiều người sẽ hỏi: nếu quả thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, sao Ngài lại phải nguyện cầu? Ngài cầu với ai? Cho ai? Cầu, là cầu chuyện gì? Những câu hỏi đại loại, đều do ý niệm ta có, rất hạn hẹp. Nguyện cầu, trước hết và trên hết, là: hiệp thông mật thiết với Chúa. Trong đó, bao gồm cả việc lắng tai nghe, cùng chuyện vãn. Nhiều tình huống nguyện cầu, trong đó ta chẳng cần nói lên điều gì. Nguyện cầu, có thể chỉ là: chìm đắm trong bối cảnh vây quanh bằng sự hiện diện của Chúa, mỗi thế thôi.
            Rõ ràng là, Đức Giêsu vẫn nguyện cầu cùng Cha Ngài. Ngài cầu nguyện, để được đối thoại chuyện vãn với Cha Ngài. Để, có được sự hài hoà kết hợp với những điều Cha vẫn muốn Ngài có và làm. Cả vào lúc Ngài thực hiện những điều lạ kỳ như nhân rộng cá, và bánh cho người người, ăn đỡ đói. Cả khi dân con tính chuyện tôn vinh Ngài làm Vua.
Cả lúc ấy, Ngài vẫn ẩn mình, thoát nhanh lên đồi cao chốn vắng, mà nguyện cầu. Nguyện cầu, ở Vườn Lặng Thinh trước ngày dấn bước vào cuộc Thống Khổ, buổi Tiệc Cuối. Ngài vẫn luôn nguyện cầu, vào mọi lúc. Nguyện và cầu cho môn đệ cho kẻ tin, những người dõi bước chân mềm của Ngài, thời mai hậu.
            Trình thuật hôm nay, không chỉ diễn tả mỗi việc nguyện cầu, của Đức Chúa. Nhưng, còn tỏ cho mọi người biết: Ngài là ai. Thế nên, khi Ngài hỏi: “Dân chúng nói Thầy là ai?” thánh Phêrô đã trả lời thay cho tất cả.
Trả lời, là mô tả mối tương quan giữa môn đệ/người người với Thiên Chúa: “Ngài là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa!” Công khai nói điều này, thánh Phêrô muốn minh xác rằng: Thầy là Đấng Thiên Sai, mọi người hằng đợi trông. Tuy nhiên, Thầy căn dặn: nay chưa là lúc để nói cho mọi người biết, về Thầy.
            Phải nhận rằng, đã từ lâu đồ đệ Chúa vẫn được dạy: các con là muối cho đời. Là ánh sáng cho muôn dân. Rằng: người người chưa sẵn sàng để nhận biết Tin Vui Bình An ấy. Người người vẫn chưa rõ biết Tin Mừng về Đấng Mêsia đã đến. Người người còn ngong ngóng Đấng Thiên Sai nào khác khả dĩ giải thoát họ khỏi ách thống trị của kẻ thù. Để, có thể trở về trong chiến thắng, như lòng mong ước.
Ở đây lại thấy khác: Chúa lại chọn hoàn tất cuộc khổ nạn. Lại để người đời coi như tội phạm. Chỉ lúc ấy, đồ đệ Ngài mới được phép tiết lộ Ngài là Đấng Mêsia, mà nguời người lâu nay trông ngóng.
            Cũng vào lúc ấy, mọi người bắt đầu sửng sốt khi Ngài khẳng định: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều. Bị kỳ mục thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9: 22). Từ lúc ấy, đồ đệ Chúa nhận ra rằng: Đấng Mêsia không là vị anh hùng cái thế. Cũng chẳng là thủ lãnh của nhóm hội nào nổi dậy chống lại thế lực thù địch, đang trấn áp. Ngài là Đấng bị dân con đầu đàn chối bỏ, xử tội và hành quyết. Nhưng, Ngài vẫn được sức mạnh quyền uy Ở Bên Trên tôn vinh. Bằng chiến thắng.             
            Chiến thắng, với Đức Kitô, chỉ mang trọn ý nghĩa khi Ngài hoàn tất trong yêu thương. Trung tín. Bất bạo động. Ý nghĩa này, được bài đọc I diễn tả bằng từ ngữ rất ngôn sứ: “Thiên Chúa sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đavít và cư dân Giêrusalem (và các thế hệ tiếp nối). Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đâm thấu, như người ta khóc than đứa con một.” (Dcr 12: 10). Lời sấm đây, được thánh Gioan trích dẫn ở bài Thương Khó, mãi về sau.
Cử hành Tiệc Thánh mỗi tuần, vẫn chưa đủ. Bởi, một khi đã nhận biết Chúa là Đấng Mêsia. Đã, cảm xúc/xót thương thấy Ngài bị nhục mạ, khổ hình đến nỗi chết và sống lại. Ta còn được kêu mời làm đồ đệ dõi bước theo Ngài, nữa. Theo ngài, ngang qua biến cố thời đại. Bằng phương thức thực tiễn. Nghĩa là: biết từ bỏ chính mình. Biết vác lên vai thập giá cuộc đời mỗi ngày. Biết theo chân Chúa, mà rao truyền Tin Vui An Bình.
Với người đời, từ bỏ chính mình là chuyện không dễ thực hiện. Và, không phải lúc nào cũng có thể làm được. Với nhà Đạo, từ bỏ chính mình là chấp nhận con người mình để khuyến khích lòng tự tin, nơi ta.
Bởi, một khi đã tự tin, ta sẽ tự khẳng định. Và, tìm ra phương cách tốt đẹp hầu thực hiện điều mình nhất quyết. Quyết loan truyền sự thật. Quyết thực hiện tình thương. Tôn trọng tự do. Có thế, ta mới có thể làm mọi việc vì người khác, cho người khác chứ không chỉ riêng mình. Ở đây nữa, yêu thương nhận thức và chấp nhận chính con người mình không là quay trở ngược về lại chính mình. Hoặc, phát triển lòng vị kỷ, nhỏ nhen. Nhưng, có yêu mình trước, mới yêu mến người khác.
Vác lên vai thập giá cuộc sống mỗi ngày, là: mở lòng mình ra với giá trị Tin Mừng Chúa gửi đến cho mình. Vác thập giá, không có nghĩa là: ra đi tìm những gì khiến mình/khiến người khổ đau, buồn phiền. Mà là, chấp nhận những gì đến với mình bằng đường lối tích cực dựng xây. Biết nhận ra tình yêu và ân huệ của Chúa, qua kinh nghiệm hằng ngày, dù đắng cay.
Bước theo Chúa, như thánh Phaolô khuyên nhủ, là: “mặc lấy” Đức Kitô. Mặc lấy, như ta mặc chiếc áo trắng tinh ngày thanh tẩy, khi bước ra khỏi giếng rửa tội. Bởi, khi lĩnh nhận ơn thanh tẩy, ta đã gia nhập vào gia đình thánh thiêng, có người anh/người chị, là con chung của Đức Chúa.
Bởi, nơi gia đình Ngài, không phân biệt ai Do Thái, ai Hy Lạp. Nơi gia đình con cái Chúa, chẳng hề có chuyện kỳ thị nam/nữ, nô lệ hay tự do. Nhưng, tất cả đã là người anh, người chị, người em cùng nhà. Không thành kiến cũng chẳng rẽ chia, bè phái, đố kỵ. Tất cả đem đến cho nhau tình yêu. Đem cho nhau công lý hòa hợp và bình an. Cho hết mọi người. Ở đời.  
Trong suy-tư/cảm-nghiệm về tình-huống rất như thế, ta hãy trở về với lời thơ được trích-dẫn, để thấy được long người cũng có lúc, rất khôn nguôi, rằng:

“Ta vừa thấy một linh-hồn mỏng-mảnh,
Níu vai ta, đòi trả lại yêu-đương.
Lòng chơ-vơ, rùng-rợn nỗi kinh-hoàng,
Lòng cay-đắng tưởng vô-cùng bất-tuyệt.”

            Chơ-vơ, rùng-rợn và kinh-hoàng, còn là tình-huốn người để luột mất ý/lời của Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu, rất vấn-vương mọi người, trong cõi đời.
Lm Richard Leonard sj
Mai Tá lược dịch.