Saturday 28 September 2013

“Nếu có ngày mai anh trở gót,”



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ 27 mùa thường niên năm C 06.10..2013

“Nếu có ngày mai anh trở gót,”
“quay về lãng đãng bến sông xa.”
 (dẫn từ thơ Hoàng Cầm)
Lc 17: 5-10
Nhà thơ trở gót, sẽ quay về “lãng đãng bến sông xa”, mà thôi. Nhà Đạo trở lại tạ ơn Chúa, sẽ còn đi xa mãi chốn đạo thiêng, rất linh hồn! Trình thuật thánh Luca nay cũng ghi đôi điều về niềm tin yêu rất đáng kính.
Bàn về niềm tin nơi Chúa, nên cân nhắc xem việc nào tạo khác biệt, việc nào không. Có cân nhắc, mới đặt hết tâm tình để tin vào Ngài. Trong cuộc sống, nhiều lúc có người những muốn tạo khác biệt với người khác, đã quay về phía người mình không ưa/không thích mà nặng lời: hãy đi cho khuất mắt tôi, rồi muốn làm gì thì làm.
Ngày nay, muốn tỏ cho thấy mình có khác biệt, con người không còn giận dữ/cãi cọ như trước nữa, nhưng im lặng, mềm dẻo hơn. Trong đời mình, Hội thánh nay cũng đã đổi thay rất nhiều. Có những điều khi xưa gò bó người đi Đạo biết bao nhiêu, thì nay không còn gay gắt như trước nữa. Có những việc khi xưa bị cấm đoán, nay được phép thực hiện rất thả dàn. Có những điều tưởng chừng như không thể thiếu trong đời, nay trở thành thứ yếu, bớt nhiêu khê và cũng chẳng còn huý kỵ nữa. Nhiều người, nay vẫn chú tâm vào những chuyện độc đáo, khác biệt hoặc mới mẻ. Họ quan niệm: không đổi mới, thì đời người rồi ra cũng đáng chán.
Vậy thì, đâu là sự việc căn bản, ở đời người?
Nếu kể ra đây, sẽ thấy rất nhiều, như: ý-niệm Chúa hiện hữu, nay đã nhẹ nhõm, tích cực hơn với con người. Tích cực, là vì: ta nhận biết Chúa hoà mình với ta, và Ngài còn ban chính mình Ngài cho ta, dù ta chỉ là người con nhỏ bé, rất hèn mọn. Thêm nữa, ta trải nghiệm rõ rệt hơn, việc Chúa sống lại và ở giữa ta qua cuộc sống hiện tại, khắp mọi chốn. Rõ ràng là: xưa kia ta cứ tưởng tội lỗi của ta thực sự sờ-chạm vào Chúa, đụng đến Chúa rất khốn khổ. Nhưng, sự thực không phải thế. Vì, lỗi tội nào đến được Chúa, Đấng vô tì vết và chẳng nề hà.
Ngày nay, ta quan tâm nhiều hơn đến những người sống quanh ta, có nhu cầu nhiều hơn ta. Và nay, cũng có nhiều tiêu-chuẩn để ta sống thực, sống xứng đáng đặt ra với ta nhiều hơn trước. Và, ta cần biết tự tha thứ chính mình, hơn cứ mải lo việc Chúa thứ tha ta, khiến ta bối rối. Và ngày nay, ta đặt nặng trọng-tâm sự việc ở đời vào những chuyện tích-cực của cuộc sống hiện tại, hơn khi trước.
Điều cần thiết, cấp bách, là: ta có thể và cũng cần tin tưởng vào những chuyện như thế. Tin tưởng, là đảm bảo những gì căn bản trong đời người. Chuyện còn lại, là: chỉ nên mở rộng lòng với những chuyện liên quan đến đời sống tâm-linh, thần thánh và thứ rào cản cần lướt thắng, đó là: mất niềm tin và quyết đạt uy quyền, cho bằng được.
Mất niềm tin, là động thái nay ăn sâu vào chủ-nghĩa cá-thể bộc phát ở khắp nơi. Là, chủ nghĩa vị kỷ, chỉ biết mỗi mình mình, còn: mọi người chỉ là cỏ rác. Cá-thể chủ nghĩa, còn là: chỉ bận tâm lo sinh sống cho riêng mình, chẳng cần để tâm giùm giúp bất kỳ một ai, ngoài chính mình. Là, nhìn người khác bằng cặp mắt nghi-ngờ rằng họ sẽ làm khó, chống đối mình. Là, coi người khác lúc nào cũng bất mãn, càm ràm, kình chống đủ mọi chuyện, chỉ tin những người ưa thích mình, sống giống mình, mà thôi. Tóm lại, là: coi “mình” khác “nó”, chống lại “nó”.
Nguyên do dẫn đến động-thái mất tin tưởng, là do mình chọn cuộc sống khép kín, chỉ tin tưởng mỗi chính mình, thôi. Đó, là nguồn cội của mọi ý-thức-hệ rất khác biệt. Là, hành xử đố kỵ, cục-bộ. Nói cho cùng, thì: những người sống khép kín/vị kỷ, không còn tin tưởng một ai và chẳng ưa thích người nào, cả người khác chính-kiến, sắc tộc và lý lịch nữa. Không ưa ai, là bởi người khác hạy chất vấn họ. Và, cứ muốn đặt quyền-uy lên người họ. Đó, cũng là thái-độ lạ kỳ, xuất từ động-thái sống riêng-tư khép kín bên trong vỏ sò. Nó ngăn chặn sự tin tưởng người khác, không nghĩ rằng người khác cũng đã làm vì lợi ích chung.
Động-thái đố-kỵ này, còn thấy rõ ở môi-trường kinh-tế, thông-tin, giáo dục và cả đạo giáo nữa.
Môi trường kinh tế chỉ hoạt-động, nếu người người biết tin vào hệ-thống tiền-tệ và ngân hàng. Hệ thống tiền/hàng từng suy sụp vào những năm 2008/2009, đến độ cần có chính phủ nhúng tay vào, mới sống sót. Khi kinh-tế thế-giới được hồi-phục rồi, nó vẫn cần đến niềm-tin chân-chất, của mọi người. Bởi có tin-tưởng như thế, thì định-chế mới đảm bảo được “trò chơi” thị-trường tự-do có đầu-tư khởi sắc, rất tiếp-thị. Nếu không, tất cả chỉ là tranh-giành quyền-lực để có quyền (mà) hành người khác, thôi. Muốn thành công, mọi người phải tin vào luật chơi thật chân-phương, lương thiện mới được.
Vì mất tin tưởng, nên con người lại đi vào một cuộc chiến tôn-giáo dai dẳng, chẳng bao giờ kết thúc. Cuộc chiến này, đang có ngay trong lòng của đạo-giáo mà phần lớn đang phát-triển. Đây là vấn đề rất phức-tạp. Là, ưu tư của những người chỉ muốn kiểm-soát những gì lẽ đáng ra phải được tự-do về mặt tin tưởng nữa. Thế nên, nhiều người quyết chống lại hình thức của chủ nghĩa tóm chặt như thời đầu, khiến họ chưa sẵn sàng có động-thái tự-do phát-triển về mặt tôn-giáo, vì lợi ích của nhiều người. Nhiều nhóm/bè đạo-giáo, lại đã du-nhập chủ-nghĩa tân–giáo sĩ, qua đó có vị còn muốn có đủ mọi quyền-bính trong tay, nên đã chối-bỏ quyền đòi-hỏi tối-thiểu của giáo-dân. Cuối cùng, vấn đề thời đại hôm nay, là: đâu đâu cũng thấy mất đi đối-thoại thực-tình, cả trong đạo lẫn ngoài đời.
Vấn đề của thời hôm nay, không chỉ là: làm sao chuyển-đạt thông-tin tới mọi người, mà là vận-động để mọi người có thể kiểm-soát được truyền-thông, báo chí. Bởi truyền-thông, nay vẫn khoanh vùng những điều mà người thời nay gọi là “không-gian chung đụng”. Đó cũng là đấu-trường, trong đó sự tin-tưởng trở thành niềm khuynh-loát; và khuynh-loát trở-thành độc-tố mang đến cho lương-tâm con người các giá-trị khó kiểm-chứng. Kết cuộc, lại dẫn đến độc-tài trong cảm nhận và dẫn đến chiến-thắng của chủ-trương đại-trà, hoành tráng, như hí-trường danh-lợi cho công chúng. Và tương lai, chúng-dân lại sẽ tùy thuộc sự-kiện: ta tin-tưởng được bao nhiêu? Làm sao để ta vượt qua thái-độ sống ích-kỷ và ý chí muốn đạt quyền-lực. Bởi, tin-tưởng là lớp xi-măng làm nền, cho cuộc sống mỗi ngày.
Cuộc sống hàng ngày tự nó sẽ khó khăn. Nền-tảng lịch-sử cũng thế. Lịch-sử các thế-kỷ vừa qua, đã làm cho sự sống con người ra khỏi cảnh rẽ chia, khác biệt. Khác biệt về kinh-tế giữa người giàu/kẻ nghèo. Khác biệt, về văn-hóa/giáo-dục, người thì được học, kẻ vẫn mù chữ. Khác biệt, về an toàn/lành mạnh trong xã-hội. Khác biệt, cả trong sinh-hoạt của Hội thánh, tức: khác biệt giữa người chuyên chăm nhà thờ và người không đi. Và khác biệt cả về cấu-trúc, có lập-trường sống tập-trung trong gia-đình hoặc bị đẩy lùi khỏi xã-hội.
Nói cho cùng, khác biệt nào cũng dẫn con người về với cuộc sống nội-tâm hay chỉ sống bề ngoài, thôi. Sống sâu sắc hay chỉ hời-hợt, trống-rỗng. Sống, giùm giúp, đỡ đần hết mọi người hoặc chỉ biết mỗi chính mình, thôi. Thêm vào đó, cũng nên nhìn vào chính mình và tự hỏi xem mình có đặt nặng cuộc sống vào với niềm tin linh-đạo không? Có tạo khác biệt trên/dưới giữa giáo-sĩ và giáo-dân không? Có chê bai, kỳ thị nam/nữ, già/trẻ, ngôn ngữ và/hoặc màu da không?
Tóm lại, sống ở đời, thời này, là sống biết tự kiểm-điểm xem mình có đi quá đà, trong động-thái tỏ-bày sự khác biệt giữa mình và người cả về đạo lẫn đời, không? Và, sống cuộc sống đạo-hạnh hôm nay, là: sống và tự hỏi lòng mình xem có đặt bức tường ngăn-cách trong cuộc sống giữa mình và mọi người? Để rồi, có tương-quan êm-đẹp trong nhóm hội/đoàn-thể; trong xã-hội và giáo-hội mình đang sống? Có sống như thế, mới tìm ra được sự bình-an trong tâm hồn, vào mọi lúc, mà không cần bức bách, ưu-tư quá nhiều điều cho mình và cho mọi người, ở đời.    
 Trong cảm nhận một khẳng-định về niềm tin như thế, cũng nên ngâm lại lời thơ trên, rằng:

“Nếu có ngày mai anh trở gót,
Quay về lãng đãng, bến sông xa.
Thì em còn đấy hay đâu mất?
Cuối xóm buồn tẻo một tiếng gà…”
(Hoàng Cầm – Nếu Anh Còn Trẻ)

Có phải vì anh còn trẻ nên mới thế? Trẻ hay không, nếu anh và tôi, ta cứ nghe lời thánh-sử bàn về niềm tin, hẳn sẽ không còn trở gót mà đi xa, ra khỏi Chúa. Nhưng, lại sẽ quay về để có anh có em, có mọi người cùng chung vui cuộc sống an-lành, hạnh-đạo. Ở khắp chốn.  

            Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá lược dịch

Saturday 21 September 2013

“Phuợng ở Mỹ Châu, Phượng sầu hoa tím,”



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ 26 Thường niên năm C 29.9..2013

“Phuợng ở Mỹ Châu, Phượng sầu hoa tím,”
“trống vắng lòng xe, trống vắng hiên che.”
 (dẫn từ thơ Nguyễn Nam An)
Lc 16: 19-31
Phượng ở ngoài đời, vẫn âu sầu nhân thế. Người ở trong Đạo, có như thế khộng? Câu hỏi đây, trình thuật vẫn cứ hỏi cả vào khi người đọc truyện Lazarô, rất khôn nguôi.
Trình thuật thánh Luca, nay không hỏi mà chỉ ghi lại tình tiết rất thơ văn để người đọc lĩnh hội tư tưởng của thánh-nhân, như truyện ông Lazarô tốt lành. Phải chăng đây là chuyện hạnh đạo về ông Lazarô ở trình thuật? Trình thuật trọn Tin Mừng hai lần được nhắc đến; một: ở trình thuật về Lazarô tốt lành như hôm nay. Truyện kia, do thánh Gioan kể về cái chết và hồi sinh ở làng Bêtania xưa, mà thánh-sử đưa vào Sách Tân Ước, trước khi kể về nỗi thống khổ và cái chết tủi nhục của Đức Chúa.
Truyện Lazarô, người duy nhất được Tân Ước tặng cho cái tên rất nổi cộm, Lazarô, bên tiếng Aram có nghĩa như “Eleazar” tiếng Híp-ri, tức: “Thiên Chúa chuyên giùm giúp”. Tiếng Hy Lạp gọi “Lazaros”, tên cũng dễ nghe nên tiếng Latinh và Anh/Pháp đều duy trì, sử dụng. Lazarô gốc chữ, là: người hành khất, rất tật bệnh bị ngược đãi như người phung cùi mà chỉ mỗi chú chó làm bạn đường, thôi. Ông bị mọi người lơ là, chẳng dòm ngó; may, nhờ quan tâm đến chuyện vĩnh cửu nên biến thành người tốt lành khác.
Theo trình-thuật thánh Gioan, thì: Lazarô thành Bêthania chết đã 4 ngày rồi mới có có cơ may được Chúa gọi hồn trở về với thế gian sống thêm vài năm nữa. Có người nghe truyện, lại đã hỏi: Không biết, là khi trở lại với thế giới dương trần, ông ta có nói điều gì? như thể bảo: “Tôi là Lazarô vừa về từ cõi chết, sẽ kể cho bà con nghe biết mọi chuyện…” Và, như tác giả T.S Eliot từng hỏi: đây như bài ca yêu thương của J. Alfred Prufrock, không? Nếu đúng, thì bà con hẳn cũng biết được một số điều về thế giới ở bên đó?
Duy có điều, là: theo lập trường chú giải thánh kinh ở đâu đó, thì 2 truyện kể ở Tin Mừng thật rất khác. Khác, từ chủ đích của người viết. Khác, cả cung cách lẫn thể loại rất hình-thức. Dù sao đi nữa, nhiều tín-hữu Đạo Chúa cũng đã kết-hợp hai truyện kể về Lazarô nhưng nội dung ở lời nguyện đọc vào lễ mồ, trong đó có câu như: “Xin thần-sứ Chúa dẫn đưa người quá cố đây về nơi thiên-quốc có ông Lazarô từng là kẻ khó nghèo được Chúa gọi, đến tháp tùng…”
Người giàu óc tưởng tượng, có thể còn nghĩ ra cảnh tình trong đó Lazarô có thể không chỉ nghèo khó mà thôi, nhưng còn bị chứng tật gì đó rất ngặt nghèo, khó chữa. Và, chỉ mỗi Đức Giêsu là bạn thân thiết với ông mới cảm thông mà ra tay chữa lành. Giàu óc tưởng tượng hơn, có thể có người còn nghĩ ra kiểu tật bệnh ngặt nghèo nào khác mà Chúa, nếu muốn chữa lành cho họ, thì Ngài phải chấp nhận lân la, gần gũi họ. Như bệnh hủi hoặc bệnh tật nào khác như nữ phụ nọ dám tin tưởng là chỉ mỗi mình Ngài mới chữa cho khỏi, nên tìm đến rờ vào gấu áo của Ngài, đã khỏi ngay (Lc 8).
Trình thuật nào cũng vậy. Lại cũng kể rằng: Chúa là Đấng chữa lành hết mọi người, dù có bệnh ngặt nghèo hay cấp tính, ác tính và Chúa đâu muốn kết than, gần gũi họ. Gần gũi với đủ mọi hạng người trên thế giới. Gần gũi đến độ Chúa còn đính kết với hết mọi người, khi xưa là đám người cùi phong, ghẻ lở, trộm cắp, đĩ điếm hoặc tội phạm đủ mọi kiểu.
Ngày nay, rất có thể là : nếu Ngài còn sống cũng sẽ gần gũi và gắn liền với cả những người ho lao, sốt rét thậm chí còn bị chứng/tật quái ác như HIV/AIDS dù Ngài chẳng bao giờ hành xử như họ. Hoặc giả, còn có cả mầm mống từ chính mình. Chẳng thế mà, khi nói với Saul (tức tên tục của thánh Phaolô) trên đường đi Đamát, sau trở thành thánh-nhân trụ cột của thánh Giáo hội, rằng: Ta là Giêsu mà anh đang ruồng bắt.”
Bằng ngôn từ ngày thời hôm nay, có thể Ngài sẽ bảo: Tôi là Giêsu, giống như những người mà quí vị đang ruồng bỏ, tẩy chay, tránh né.” Suy cho kỹ, thời nay lớp người nào đang bị xã hội né tránh và ruồng bỏ nhất, thì Chúa lại càng gần gũi, đính kết với họ.
Và, thánh Phaolô có lẽ sẽ lập lại những lời tương tự như xưa: “Tôi đây, nào thấy xấu hổ hoặc ngại ngần gì thập giá nữa là!”  Và, nếu còn sống đến ngày hôm nay, có thể là vị thánh cột-trụ của Giáo hội, cũng sẽ bảo: “Thập giá kia, tôi còn không ngại thì xá gì tật bệnh dù khó chữa, như: phung cùi, sốt rét, cả đến AIDS, cũng thế.”
Cũng thế, ông Lazarô có thể cũng đã nói với Đức Giêsu, Đấng chữa lành cho ông, như từng bảo: “Tôi đây bệnh tình nghiệt ngã là thế, mà Ngài chẳng nề hà lại chẳng sợ gần gũi, thật quá sức!”
Cũng vậy, bắt chước thánh Phaolô, các Lazarô thời đại hoặc người bệnh mắc chứng ho lao, phong cùi hoặc tệ hơn, chứng HIV/AIDS sẽ lại nói: “Tôi vui mừng được chịu khổ nhục vì anh em… Tôi xin mặc lấy vào thân mình, vì lợi ích cho thân mình Ngài là Hội thánh Chúa.” (Col 1: 24) Và khi ấy, cũng có thể Chúa sẽ hỏi: “Anh/chị có sợ không nếu tôi lại là thành-viên của Hội-thánh đang bệnh hoạn.”            
Thật ra thì, gần gũi những người bệnh ngặt nghèo như Đức Chúa từng gần cận đâu có nghĩa là mình cũng ngặt cũng nghèo, để phải né tránh, hắt hủi như một số “vị” ở trên cao xưa nay vẫn xử sự. Nếu tự nhận là thành viên của Hội thánh hoặc là thành phần thân thể của Giáo hội là Đức Kitô tưởng rằng cũng không có gì phải sợ sệt, tức: sợ nhiều thứ nên không dám nhận họ, dù họ hàng là người thân của ta đang mắc tật/bệnh, tật nguyền.
Bởi thế nên, nếu có ai –dù có là chi thể của hội thánh hay không-  đang chết dần mòn ở bệnh viện, người ấy lại cũng sẽ, một lần nữa, làm như Đức Kitô đã làm trên thập giá đầy khổ ải, là: đang về cùng Cha. Về với Cha. Về, trong tư thế của người Con, dù bệnh tật.
Trong tâm tư đầy cảm nghiệm như thế, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ rằng:

“Phượng ở Mỹ Châu, Phượng sầu hoa tím,
Trống vắng lòng xe, trống vắng hiên che.
Tháng sáu tôi thề khi đêm ra biển
Dầu sẽ như ve hết kiếp không về.”
(Nguyễn Nam An – Phượng)

Cảm nghiệm của hoa Phượng, mầu đỏ hay mầu tím, vẫn là cảm nghiệm về nỗi chết rất tật bệnh. Tật hay bệnh, vẫn thấy lòng trống vắng nếu không có Chúa gần gũi, chữa lành và yêu thương. Chính đó, là ý tưởng của cả nhà thơ lẫn nhà Đạo, rất văn thơ.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá lược dịch

Saturday 14 September 2013

“Người ta xa lánh cả tôi rồi,”



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ 25 Thường niên năm C 24.9..2013

“Người ta xa lánh cả tôi rồi,”
“Trở gối, nghe hồn động biển khơi.”
 (dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Lc 16: 1-13

            Nhà thơ, nay thấy như mọi người cứ xa lánh mình mãi. Nhà Đạo, xưa tìm đến với mọi người để nghe và thấy “hồn động biển khơi”. Trình thuật thánh Luca, cũng mang nhiều ý/lời về những người tìm đến Chúa để nghe Ngài giảng. Trình thuật, kể về ngôn-ngữ sử-dụng trong Đạo, tiếng Hy Lạp có cụm từ “parrhesia” bên tiếng Anh nghĩa là: phát-ngôn thẳng thừng về nhiều việc và nhiều sự.
            Parrhesia lúc đầu mang nghĩa tiêu cực để chỉ người nói nhiều không ngừng nghỉ. Theo nghĩa này, Parrhesia không xứng với người nói chuyện đứng đắn. Tính tích-cực ở Parrhesia là: phẩm-chất của ngưuời nói năng thẳng-thắn, không úp mở, cũng chẳng thêu thùa/thêm thắt, chỉ diễn-tả thông-điệp của người nói muốn đưa ra, không che đậy. Xem thế, thì đây là sự-việc đáng ta ca ngợi.
            Parrhesia thực sự liên quan việc người nói có dính-dự, dám chấp nhận phản-ứng bất lợi từ người nghe. Người nói kiểu này, đã mê say cảm xúc nhắm vào sự thật, không cần biết điều mình nói có tốt lành hay không. Nói thế, là quyết thuyết phục cả những người kình-chống lại mình nữa. Nói năng kiểu huỵch toẹt ra ngoài, là nói với đám đông thường không nghĩ khác với điều mình muốn nói, hoặc chẳng nghĩ gì. Nói như thế, là giáp mặt/đối đầu và nghĩ rằng sự thật thắng thế, rất chắc chắn.
            Nói theo kiểu thẳng thắn, là quyết phấn đấu trong lời mình nói ra. Là, đầu tư vào những gì mang tính đích thực, tức: thể loại này nói với nhiều người không theo sự thực; tức: nói theo kiểu ai oán là cốt tạo năng-lượng để nói cho tốt, cho nhiều và hữu hiệu hơn. Kiểu này, có thị-kiến ngoài tầm-mức địa-phương/cục-bộ hoặc riêng tư, mang tính hoàn-vũ ở trong đó. Đây là cách nói mãnh liệt, quyết chuyển tải tính chân phương, thật-thà mà có người, khi xưa, gọi là lối nói hiệu năng như có bia/rượu, ngấm trong người.             
            Khi người nghe bị ảnh hưởng từ người nói hăng say/thẳng-thắn, thì họ chịu lắng tai nghe và chịu để cho người nói thuyết phục mình và lôi cuốn đi xa hơn điều mình tưởng tượng. Parrhesia tạo niềm tin nơi người nghe. Và, niềm tin đến từ sự việc nghe/biết lời ấy. Đây là trạng-thái gắn kết giữa người nói cũng như văn bản được nói ra và người nghe.
            Người nói kiểu “parrhesia” hứng khởi với thông-điệp mình chuyển-tải đến độ không ‘thần-linh’ nào có thể dừng trên người nói. Quả là, có lúc Kitô-hữu sử dụng lối nói thẳng-thừng này, hứng thú đến độ họ dám chối bỏ sự hiện hữu hoặc tính hiệu năng của các ‘thần-linh’ như thế. Họ cười nhạo vào phụng vụ ngoài đạo và có khi vào cả nghi thức của Kitô-giáo nữa. Đôi lúc họ có vẻ tự cao tự đại, nữa.
Điều này là do lối nói thẳng nối kết họ với Thiên Chúa đích-thực, Đấng mở rộng lòng ra và thương xót không hạn chế, mà thánh Luca chuyển cho ta trong Tin Mừng và sách Công Vụ. Các vị thuyết-giảng lại nói thẳng theo kiểu perrhesia đã trở nên trong sáng với Chúa đích-thực và mở lòng ra với Đấng Cao Cả được nâng cao vượt quá chân trời tưởng tượng.
            Nói thẳng thừng kiểu parrhesia còn đối chọi lại lối hùng biện, xã giao gột tỉa lối nói không rào đón khác hẳn ý nghĩa mà cụm từ Hy Lạp gọi là ‘eulabeia’, tức: lối hùng biện diễn-tả theo cách ‘hoa hoè hoa sói’, khó kềm chế.
            Thế nên, không lạ gì khi ta tưởng tượng cảnh những người nói thẳng/nói thật kiểu parrhesia lúc đầu đã quảng bá Tin Mừng Chúa-Sống-lại đến tận thành đô của Đế Quốc. Nhưng, khi đã hoàn tất, người người ít cần lối nói thẳng thừng kiểu parrhesia, vì rất cứng. Đời sống thường con người đòi họ phải có lối nói thường tình như dân gian mọi người thường nói. Vậy, với thế hệ người nghe là con cháu về sau, hỏi rằng lối nói thẳng thừng như parrhesia có làm mất đi tính riêng tư của nó chứ?
            Vương Quốc Nước Trời của Chúa là chế độ quà tặng mở rộng gồm các giá trị tự tại, trong đó con người quan trọng hơn sự vật. Và nhất là, tình thương-yêu còn quí hơn thành-đạt. Nhưng đây có nghĩa là tình thương-yêu thông minh/trí-tuệ và tình thương có suy-tư được ban phát, tức có nghĩa trong bối cảnh của nó.
            Sự việc ta hiện diện ở Tiệc Thánh, nay tự nó có nghĩa: ta tin vào các giá-trị đang hiện diện quanh ta và ta muốn sống đích thực giá trị ấy và lối nói thẳng dẫn ta về sống xứng đáng con Chúa hơn. Sự việc ta ra đi hoạt động vào những ngày sắp tới trong tuần đang trờ tới, có nghĩa: ta là người thực tế/thực dụng sống thông minh/bén nhạy theo cách ta được dạy để sống cùng và sống với nhau. Nói thế, là: ta sống đứng đắn, dù không là thế hệ đầu nghe biết Tin Mừng, nhưng vẫn muốn thành người lý-tưởng và thực tế, cùng một lúc.
            Dụ-ngôn ta nghe hôm nay, là thánh Luca muốn dùng để nói theo kiểu parrhesia, vào thời của thánh-nhân nhưng sắc thái có phần nhẹ nhàng hơn. Điều đó có nghĩa: phải biết khôn khéo, bén nhạy, ‘cẩn trọng’ và có khả năng tạo tầm kích cách biệt giữa lý-tưởng và thực tế; kỹ-năng giúp ta đọc được mức độ hiểu biết của người nghe ngõ hầu ứng-đáp với kiểu nói parrhesia, của thời trước. Đây là cách lối rất khôn khéo biết tạo tầm-kích về khả năng có được phẩm chất cuộc sống trong một nhóm.
            Dụ-ngôn, nay thánh Luca sử dụng như để làm bớt đi tính căng thẳng nơi sắc thái nói năng của các nhà giảng thuyết, thời của ngài. Bằng không, ta sẽ nhận được một bó phẩm bình theo kiểu của Billy Grahams cứ hùng hồn biện-luận với nhóm giáo phái tách riêng, ngay vào lễ sáng.
            Nối kết những đường lối nói năng này với tình cảnh của Giáo hội ngày nay, ta thấy được gì? Vài thập niên nữa, Giáo hội mình sẽ đi về đâu? Phải chăng sẽ có thời buổi trong đó sẽ có đổi thay trên thế giới? Và trong cả Giáo hội mình? Cũng có thể, sẽ có thời kỳ bất ổn về cơ cấu sẽ xảy đến với thế giới và Giáo hội!
            Giáo hội theo ta hy vọng sẽ không rơi lại vào thời cũ xưa ở đó có nhiều thành-tựu. Hy vọng rằng: ta cũng sẽ vượt qua giai đoạn có những cãi tranh, giành giựt uy thế với ai đó. Cả đến xã hội phóng khoáng hay phóng túng, thời hiện đại, cũng sẽ tìm cách sống mà không cần biểu tỏ bằng mặt ngoài là đã qui chiếu vào với Giáo hội. Lâu nay, thế giới ngoại tại vẫn có khuynh hướng hoặc thái-đô chống đối Giáo hội. Tất cả những lối/những kiểu thẳng-thắn/thẳng thừng ấy sẽ đi vào dĩ vãng.
            Bởi Giáo hội không là cơ cấu chống đối xã hội; Giáo hội cũng không ở bên trên lịch sử của người đời, cũng không vô nhiễm khỏi giòng lịch sử của thế-giới. Giáo hội vẫn cùng sống chung cởi mở và đối thoại với thế giới. Giáo hội chỉ sống sót nếu biết đối thoại với thế giới. Bởi Giáo hội ban bố cho thế giới cung cách diễn tả cách công khai về mọi xác tín của Giáo hội. Giáo hội cũng công khai cho thấy cuộc sống người đi Đạo theo cách tập thể, dễ thấy sự trong sáng, cách công khai.
            Cần nói ra đôi điều về đạo đức chức năng của hai khối, cần nói về ý-nghĩa và giao ước về xác tín với cộng đồng, về niềm tin-yêu, rất đoàn kết. Cần nói thẳng và nói thật về kinh nghiệm riêng tư bên trong lịch sử của tập thể. Tất cả đều nên đề nghị không gian ban tặng để tạo giao ước sống cùng và sống với nhau, trong thuận hoà.
            Vấn đề là: làm sao nói lên được điều đó? Nói thẳng và nói thật theo kiểu parrhesia được bao nhiêu và bao lâu? Nói công khai khôn khéo ư? Mỗi thứ mỗi kiểu được bao lâu và bao nhiêu ngõ hầu đạt thuận hoà, đoàn kết và vui sống, đó mới là mục tiêu đặt ra trước mắt cho cả xã hội ngoài đời và Giáo hội trong Đạo. Đó mới là vấn đề đặt ra cho ta hôm nay.
            Trong tinh thần hiểu và biết được như thế, cũng nên ngâm lại lời thơ ở trên, mà hát rằng:        
             
            “Người ta xa lánh cả tôi rồi,
“Trở gối, nghe hồn động biển khơi.”
            Xa bạn, xa lòng, xa mắt đẹp,
Gió mưa giòng tóc đắng vành môi”
            (Đinh Hùng – Chớp Bể Mưa Nguồn)

            Mưa nguồn chớp bể với nhà thơ, vẫn là giòng tóc, là “hồn động” xa lánh mãi. Xa lánh rồi, nhà thơ cũng nên về với nhà Đạo mình để thấy được rằng: người ta nay đã gần lại với bạn và với tôi, với tất cả những người không còn thấy đắng nơi vành môi nữa, nhưng đã ấm lòng về với dân gian nhà Đạo, rất thuận tình thuận thảo. Ở mọi nơi.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá luợc dịch