Saturday, 6 June 2009

“Thôi quay về trú ngụ, với cô đơn”

ở một nơi, thiên đường tôi chết đuối
nỗi nhớ em, ướt nhòa trong bóng tối
ôi tình yêu, xa tít phía mặt trời

(dẫn từ thơ Phạm Ngọc)

Mc 14: 12-16, 22-26

Vẫn cô đơn, làm sao chết đuối ở thiên đường? Còn nỗi nhớ, ôi tình yêu xa tít, phía mặt trời! Xa tít chốn thiên đường, đâu nằm phía mặt trời, mà nhà thơ đòi trú ngụ. Mặt trời, thiên đường nay nhà Đạo tôn vinh. Tôn vinh Mình Máu Chúa, có trình thuật.

Trình thuật nay, thánh Mác-cô nhấn mạnh về Tiệc Mình Máu, một giao ước Chúa hằng ký kết. Giao ước Ngài ký, luôn ghi nhận tình thương giao hoà Ngài mang, suốt hành trình. Giao ước Ngài ký nhận, là nối kết hai truyền thống có Chúa. Có dân gian.

Giao ước, là khế ước Chúa long trọng ký kết với dân gian. Hết tâm tình. Lúc sớm. Và, Chúa mặc khải cho thấy: Ngài luôn vui lòng lập giao ước với con dân của Ngài. Tuy nhiên, Kinh thánh cho biết: dân con của Ngài đã bội ước với lời nguyền, sau giao kết. Chính vì thế, các lãnh tụ kêu cầu Chúa xót thương, kiên nhẫn chờ cho ngôn sứ ra tay khiển trách đàn dân bất trung. Lỗi hẹn.

Bài đọc 1, nêu rõ chi tiết được ký kết trong Giao ước, bằng sắc luật Chúa tỏ bày với Môsê, ở núi thánh Sinai, để rồi ông sẽ chuyển lại cho dân chúng. Khi ấy, tất cả đồng thanh cam kết: “Mọi lời Ngài phán, chúng tôi sẽ thi hành.” (Xh 24: 3) Lời hứa ấy, đã trải qua tu chính bằng nghi tiết long trọng. Nghi tiết, ở nơi bàn thờ do Môsê thiết dựng. Có của lễ. Có đá tảng vòng quanh. Bàn thờ, tượng trưng cho Thiên Chúa. Đá tảng, ảnh hình của 12 chi tộc, đất Israel.

Người trai hiên ngang dấn bước, tiến lên hy sinh làm của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa. Phân nửa máu đào của loài thú còn lại, rắc đều lên bàn thờ. Và khi Môsê đọc toàn bộ sắc luật, tức Giao Ước, thì toàn dân cất lời cam kết chu toàn bổn phận, ghi trong đó.

Tiếp đến, Môsê dùng phân nửa số máu còn sót lại rưới lên người chúng dân, và nói: “Đây, Máu Giao ước, được thiết lập với anh em.” (Xh 24: 8). Đây, máu đào rưới lên bàn thờ. Và, lên người dân chúng. Nhưng, đừng lấy làm lạ nếu lời lẽ ta nghe, xem chừng đã quen.

Trình thuật hôm nay, cũng đưa ta về với Tiệc Tạ Từ, Chúa mở ra cho đồ đệ của Ngài. Hôm ấy, ngày đầu tuần Bánh Không Men, ngày sát tế chiên Vượt Qua. Lễ Phục Sinh được cử hành, kể từ đó. Đây, biến cố trọng đại nhất trong niên lịch của người Do Thái. Ngày, mọi người mừng kính cuộc giải thoát do Mosê lãnh đạo, nhằm cứu dân khỏi cảnh nô lệ, xứ Ai cập.

Đêm trước ngày người Do Thái rời Ai Cập, họ giết một chiên con và ăn thịt chiên ấy. Máu chiên được bôi phết lên cửa ra vào, mọi nhà. Làm thế, để mọi bé trai đầu lòng được cứu thoát khỏi bàn tay lạnh, của thần chết. Các cháu được cứu, bằng máu của chiên cừu.

Nay, Đức Giêsu và đồ đệ Ngài, chuẩn bị Lễ Vượt Qua, tức Phục Sinh, như ta đà biết. Với các thánh tông đồ, lễ kỷ niệm này không là nghi thức bình thường, rất Vượt qua. Nhưng, đã khai phá một kỷ nguyên mới. Một giao ước mới. Cho dân mới.

Khi mọi người tề tựu về ăn lễ, Đức Giêsu cầm lấy bánh không men –thời bấy giờ dùng bánh không men, vì men bánh là hình thức của ô uế, hỗn tạp- Ngài chúc lành theo truyền thống, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ đang hiện diện, rồi nói:“Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Thầy.” Thân mình Thầy, không là thân xác của Ngài thôi, mà là toàn bộ con người. Là, tất cả những gì Chúa muốn nói, ngang qua đời Ngài. Nói, bằng lời. Nói, bằng việc làm.

“Cầm lấy mà ăn”, Chúa xác định ta là người của Chúa, rất trọn vẹn. Trọn vẹn, theo sứ vụ Chúa giao phó. Trọn vẹn, theo thị kiến cuộc đời. Cầm lấy mà ăn, không chỉ tư cách cá nhân, nhưng với tư cách của tập thể, kết hợp. Kết hợp, tất cả cùng ăn chung tấm bánh. Hiền hoà. An bình.

Cũng một cách tương tự, Đức Giê-su cầm lấy chén, đọc lời cảm tạ lên chén (tiếng Hy Lạp gọi là: eucharistesas), rồi trao cho môn đệ, để tất cả uống chung một chén. Và, Ngài nói: “Này là Máu Thầy, Máu Giao Ước sẽ đổ ra vì nhiều người.” (Mt 26: 28)

“Máu của Thầy”, diễn tả toàn bộ con người Đức Giêsu. Máu, không còn là máu chiên, máu bò nữa. Nhưng, là Máu rất Thánh của Ngài. Trên bàn thánh thập giá. Máu, đổ ra cho mọi người chúng ta. Bằng vào nghi thức này, Đức Giêsu cử hành Giao Ước Mới, thiết lập bằng cái chết, của Ngài. Và Máu Ngài trao, rưới vẩy lên bàn thờ thập giá. Làm thế, Ngài vừa là Vị Thượng tế, vừa là Của Lễ Hy Sinh. Hy sinh, tặng chính Mình Ngài.

Bài đọc 2, thánh Phaolô viết và gửi giáo đoàn Do Thái bức thư, trong đó nói: “Đức Kitô đã vào thánh điện -duy chỉ một lần- không phải với máu dê máu bò, nhưng với Máu của chính mình Ngài, và lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn, cho chúng ta.” (Dt 9: 12).

Giả như, máu loài thú rưới vẩy lên những gì uế tạp mà còn thánh hoá được họ, thì “Máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần Chúa hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã thanh tẩy lương tâm ta khỏi mọi sự việc đưa đến chết chóc, mà phụng sự Thiên Chúa hằng sống.” (Dt 9: 14)

Chính vì thế, thánh Phaolô quả quyết: “Đức Giêsu là trung gian của Giao ước mới, Ngài lấy cái chết để chuộc lỗi loài người đã phạm vào thời giao ước cũ.” (Dt 9: 15). Nhờ thế, khi cầm “chén Máu Chúa” mà uống, ta đồng hoá với Đức Giêsu. Đồng hóa, với tâm tình hy sinh của chính Ngài. Và ngang qua tẩy rửa, giao ước mới giữa Chúa với dân Ngài, được thiết lập. Làm thế, ta nhất quyết theo Chúa, qua Đức Giêsu. Đổi lại, Ngài tự hiến Mình để tất cả sẽ thành Đường, Sự thật và Sự Sống.

Ta làm thế, vào mọi Tiệc Thánh Thể, suốt cuộc đời. Lễ Vượt Qua khi xưa, tạo cho ta con đường dẫn đến Vượt Qua mới. Bánh không men xưa, tạo đường cho ta đi đến với Bánh hằng sống, tức Thân Mình Chúa. Chén rượu ta uống, tạo thành chén Máu cứu chuộc Ngài đổ ra vì tình thương ta. Và, ta làm việc ấy từ nay đến mãn đời. Ngõ hầu nhớ đến Ngài.

Nghi thức phụng vụ sẽ chẳng mang ý nghĩa gì đích thực, phi trừ diễn tả trọn vẹn những gì mà cộng đoàn ta đang trở thành. Và, muốn trở thành dân con của Giao ước mới. Ta quyết tâm thực hiện sứ vụ Chúa giao phó, nơi Đức Giêsu. Ngài giao phó, mỗi lần cộng đoàn tụ tập quanh tiệc phụng thờ.

Ở đây, hệt như người Do Thái đã từng làm dưới chân núi thánh Sinai, ta tụ tập để nghe Lời Chúa. Ở đây, ta tái lập Giao ước đã hứa, là theo chân Chúa, đến cùng. Tụ tập nơi đây, quanh bàn thờ này, ta cùng ăn và cùng san sẻ với nhau, một tấm bánh. Một chén cứu độ.

Qua kết hợp làm chứng cho Sự thật, và Tình Yêu đích thật được ban ra, qua phụng vụ và trong cuộc sống thường nhật, ta tuân thủ giao ước ấy. Là dân con của Chúa, ta kéo mọi người về với kinh nghiệm của giao ước ấy.

Chính vì thế, đối với ta, cử hành phụng vụ Chúa Nhật với lòng sốt mến. Có phẩm cách. Có niềm vui thông hiệp. Đó là việc làm quan trọng. Còn gì quý bằng cử hành Tiệc Thánh, trong cuộc đời. Có làm thế, ta mới thực sự phản ánh cuộc đời, ta đang sống. Và Tiệc thánh chỉ có ý nghĩa tốt đẹp, nếu toàn thể cộng đoàn cử hành trong hiệp nhất. Sốt mến. Hài hoà.

Trong nhận thức ý nghĩa quan trọng như thế, ta hăng say cất lên lời vui hát. Hát rằng:

“Vui lên, vui lên ca vang ngàn phương

Sao cho nơi nơi không mang sầu thương

Thanh niên chí kiêu hùng, gieo sức sống tưng bừng

Cùng hợp lực ta xây ngày mai sáng tươi.” (Phạm Đình Chương – Bài ca Tuổi Trẻ)

Bài ca tuổi trẻ, vẫn cứ vang. Vang trên đường đời ta theo Chúa. Vang, cả vào buổi tiệc, có Chúa cùng chia vui. Vui với cộng đoàn Nước Trời. Ở đây. Bây giờ.

______Lm Phan Đỗ thục Linh

Mai Tá diễn dịch

Sunday, 31 May 2009

“Chúng ta đến nghe nỗi sầu tinh tú”

Những ngôi sao buồn suốt một chu kỳ,
Những đám tinh vân sắp sửa chia ly,
Và sao rụng biếc đôi tay cầu nguyện

(“Đường Vào Tình Sử”, thơ Đinh Hùng)

Mt 28: 16-20

Đường vào tình sử, nhà thơ nghe nỗi sầu tinh tú. Cất buớc ra đi, nhà Đạo tìm thấy niềm vui ở Tin Mừng. Niềm vui, là niềm tin Đức Chúa có Ba Ngôi, đã mặc khải ở trình thuật.

Trình thuật hôm nay, thánh Mát-thêu ghi về người dân địa cầu không mang nỗi sầu tinh tú, nhưng rất tin. Tin, Chúa Ba Ngôi yêu thương kết hợp. Tin, mầu nhiệm huyền bí Chúa Ba Ngôi. Tin, vẫn một niềm, nhưng không giải thích bằng ngôn ngữ, với loài người.

Thánh Phaolô, bằng vào ánh sáng của lý trí và lẽ phải, mà con dân địa cầu biết rõ Thiên Chúa là Đấng tạo tinh tú. Vũ trụ. Cội nguồn. Là, nguyên nhân làm thành vũ trụ. Có một điều, mọi người không thể hiểu, khi vào bản chất sâu lắng của Thiên Chúa, đã mặc khải cho ta, nơi Tân Ước.

Không hiểu hết mặc khải, nhưng ta chấp nhận những khó hiểu ấy, bằng tin-yêu. Tin, như tin vào bản chất của nhiệm mầu. Tin, như tin vào mặc khải, ta nói được chỉ một Chúa. Đấng thấu biết mọi chuyện. Đấng, có quyền trên mọi sự. Đấng, thương yêu hết mọi người.

Thánh Tôma A-qui-nô xưa từng bảo: điều ta nói về Chúa, đều mang tính mâu thuẫn ngay trong tâm. Bởi “Chúa là Sự Thật”, nhưng không là sự thật ta nắm bắt. “Chúa là Tình Thương”, nhưng không là “thương tình” ta kinh nghiệm. Từng trải. Vả lại, ta nào có thể từng trải kinh nghiệm Thương Yêu giữa Ba Ngôi. Cũng chẳng rõ biết sự trong sáng Chúa vượt quá đầu óc hạn hẹp, của con người.

Bài đọc 1, sách Thứ Luật viết: ta biết Chúa, không bằng óc não, nhưng bằng kinh nghiệm riêng tư ta có về hoạt động của Chúa nơi sự sống. Đó, là điều Môsê từng khẳng định: “Có dân nào được nghe tiếng Chúa phán từ đám lửa như anh em đã nghe biết, mà vẫn sống? Có thần nào lại ra công chọn lấy cho mình một dân tộc từ dân tộc khác. Dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn khiếp đảm, như Đức Chúa?´(ĐNL 4: 334)

Qua mặc khải, ta được biết: trong Chúa, có Ba Ngôi vị: Cha, Con và Thánh Linh. Mỗi Ngôi vị san sẻ trọn vẹn bản thể Đức Chúa. Là, chính Thiên Chúa. Mặc khải rằng, mỗi Ngôi vị đều khác biệt. Khác, do quan hệ giữa các Ngài: giữa Cha và Con, giữa Con với Cha. Và, tình Thương Cha-Con, ngay tự bản chất, là Ngôi Thứ ba, Chúa Thánh Thần.

Xác tín ấy, ta chẳng làm được gì để nắm bắt được trọn vẹn ý nghĩa của Tương quan giữa các Ngôi Vị của Thiên Chúa. Nhưng, tương quan giữa Chúa nói lên một điều, là: khi đã tin, ta sẽ không còn ý định chỉ tìm giải thích những điều không thể lý giải. Nói cách khác, chẳng thể minh xác công thức “3=1”, được. Cũng không thể bảo: mỗi Ngôi vị là 3 Ngôi vị, nhưng chỉ nói: một Thiên Chúa có 3 Ngôi vị. Rõ ràng, khác biệt giữa từ ngữ “Chúa” và “Ngôi vị”, là ý thế.

Rõ ràng là, ý niệm như thế vượt quá kinh nghiệm của mọi người. Vượt, óc tưởng tượng của nhân gian. Thế tục. Vượt như thế, tự khắc giải quyết được huyền nhiệm. Thế giới của ta, có nhiều sự việc vượt quá sức hiểu biết trọn vẹn. Vượt, toàn bộ não trạng tưởng tượng, đang nhen nhúm. Đầu thái cực này, là sự bao la vĩ đại, của vũ trụ. Đầu bên kia, là yếu tố cực vi, như: điện tử, nguyên tử, rất nơ-trôn.

Trên thực tế, cụm từ “Ngôi vị”, xuất xứ từ tiếng La-tinh “Persona, không chỉ có nghĩa “người” phàm, mà còn có vai trò người nghệ sĩ thủ diễn, trong kịch nghệ. Kịch nghệ cổ La Mã, có thói quen để cho các nhân vật khi diễn xuất được phép đeo mặt nạ (gọi là persona), nhằm nói lên vai trò mình thủ giữ. Cũng tựa như kịch nghệ Hồ Quảng/hát bộ bên Trung Quốc, có tục vẽ mặt cho diễn viên để biết nhân vật ấy là ai.

Tầm nguyên cụm từ Persona bên tiếng La-tinh, ta thấy giới tự “per” tức “ngang qua”, sona” xuất từ chữ “sonum” nghĩa là “âm thanh”. Tức, persona (Ngôi vị) là người mà qua đó, diễn viên nói cho biết tính chất của nhân vật. Với kịch nghệ Hy Lạp, tức nguồn gốc mà phần đông người La Mã đã rút tỉa kinh nghiệm dựng xây nền kịch nghệ của mình, thì “persona” (ngôi vị) hoặc “mặt nạ” được gọi là “prosopon” theo nghĩa của cụm từ, là thứ gì hiện diện ở trước mặt.

Suy tư về Ba Ngôi Thiên Chúa, cụm từ “Ngôi vị” liên kết với Chúa, được coi như có liên quan đến truyền thống cổ xưa. Nơi Chúa, có 3 vai trò rõ nét: vai trò của Cha, Con và Thánh Thần. Có thể nói, ta không đủ khả năng để đi sâu vào thực tại sâu thẳm của các vai trò này, là bởi không thể tự giúp mình hiểu được điều đó, khi tìm hiểu tại sao mà mỗi Ngôi vị lại có thể thực hiện vai trò của các Ngài được như thế.

Cha, là Đấng Tạo Hoá, Đấng Bảo Tồn, Nguồn Cội sự sống, của muôn loài. Ngài là Đầu Hết và Cuối Hết, của mọi sự.

Con, là Ngôi Lời, nhờ Ngài và qua Ngài, Bản Chất Thiên Chúa được thông truyền cho ta. Con đã Nhập thể làm người. Tức, Ngài chấp nhận toàn bộ bản chất con người. Và, Ngài sống rất sinh động trong ta. Với ta. Ngài là Lời của Thiên Chúa, Đấng tự thông truyền. Ngài giúp ta hiểu rõ, bằng Lời và bằng các hoạt động của Ngài. Nhất thứ, là bằng toàn bộ phương cách sống động cũng như Bản vị của Ngài. Nhờ vào đó, ta hiểu được Thiên Chúa, đậm nét hơn.

Dù thế, ta vẫn chỉ thấy Chúa “trong làn gương mờ của mây mù”; bởi, tính Người của Đức Giêsu giới hạn khả năng thực tế rất trọn vẹn mà Chúa mở ra, cho ta biết. Tình thương của Đức Giêsu tạo cho trí óc của loài người chúng ta chỉ đạt được giới hạn của hiểu biết. Nhưng, tất cả vẫn là bóng hình mờ nhạt của Tình Thương, có trong Ba ngôi Đức Chúa, thôi.

Thánh Thần, là sự hiện diện của Thiên Chúa trong toàn bộ thế giới. Và, trong Hội thánh Chúa. Nhờ Thánh Thần, mà Hội thánh Chúa được dẫn đi và đưa dắt vào toàn bộ sự thật. Thánh Thần, như ta biết, là linh hồn của Hội thánh. Nhờ Thánh Thần, Hội thánh mới thật sự mặc lấy hình hài của Đức Kitô.

Trình thuật Chúa Về Trời, hôm trước Chúa nói rõ việc uỷ thác Ngài nhận từ Chúa Cha. Đặc biệt hơn cả, Ngài ra lệnh cho con dân Hội thánh hãy mời gọi toàn muôn dân nước trở về làm đồ đệ của Ngài, bằng cử chỉ:“Hãy làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, Con và Thánh Thần.’ (Mt 28: 19). Trọn vẹn ý nghĩa của thanh tẩy, đi xa hơn nghi thức ta vẫn tưởng, là: dẫn đưa ta vào với Vương Quốc của Đức Chúa, cách trọn vẹn.

2000 năm qua, vẫn như thế. Việc ủy thác được ban ra với mọi thành viên của Hội thánh để mọi người được tháp nhập vào cùng một cộng đoàn bằng việc thanh tẩy, trong nước. Khi thanh tẩy, lời cam kết về Chúa Ba Ngôi vẫn cho họ biết, về nhiệm mầu này. Với tân tòng, Cha đã trở thành Nguồn gốc và Cứu cánh của sự sống. Con, trong Đức Kitô, đã trở nên mẫu mực; và ngang qua Ngài, mục tiêu ấy đã đạt. Và, Thánh Thần đã trở thành nguồn mạch năng động, mà ngang qua Ngài, ta đến được với Cha, ngang qua Con, là Đức Chúa của ta.

Trong hiệp thông với Ba ngôi Đức Chúa, ta hân hoan hát lời cảm nhận, mà rằng:

“Này người yêu anh ơi!

Cho nhau nồng ấm cuộc đời

Hoa thơm có ánh mặt trời

Ôi núi mừng vì mây đến rồi..” (Nguyễn Đức Quang – Bên Kia Sông)

Núi mừng vì mây, nay đến rồi. Ta cũng mừng, vì nay mọi người đã tin. Tin, có Chúa Ba Ngôi. Tin, vào Tình Yêu Chúa. Tình nồng ấm, cuộc đời. Tin rằng, từ nay, không còn “nghe nỗi sầu tinh tú”, nhưng nguyện cầu. Nguyện cầu tin Chúa Ba Ngôi ở lại mãi với mỗi người. Mọi người. Ở khắp nơi. Trên đời.

____________Lm Phan Đỗ Thục Linh

Mai tá diễn dịch.

Sunday, 24 May 2009

“Mà sóng lòng dồn dập như mây trôi”

sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ

dâng cao lên, cao tột tới trên trời.”

(thơ Hàn Mặc Tử)

Ga 20: 19-23

Sóng lòng nhà thơ, dâng cao lên, cao tột tới trên trời. Tâm can nhà Đạo, dồn dập như mây trời đầy Thần Khí, cứ tuôn ra. Thần Khí Chúa, luôn tuôn trào đổ xuống nơi tâm tư nhà Đạo, như trình thuật hôm nay, quyết mô tả.

Trình thuật hôm nay, thánh Gio-an lại diễn tả mầu nhiệm rất thánh, Chúa cứu độ. Nơi nhiệm mầu cứu độ, Chúa báo trước việc Ngài gửi Thần Khí đến với dân con nhà Đạo, rất thân thương. Thần Khí đến, là thực tại sóng lòng dồn dập, suốt tâm can. Nơi mây trời, người nhà Đạo.

Trình thuật thánh Gio-an hôm nay, cũng được trích dẫn vào ngày Chúa Sống Lại. Vào khi ấy, Chúa báo hiệu Ngài gửi Thần Khí đến với môn đệ, và uỷ thác cho các thánh, sứ vụ giảng rao Tin Mừng, niềm vui đến. Hai trình thuật, diễn tả hai tình huống khác nhau. Nhưng, cùng một thực tại sống động. Với thực tại này, thời gian và không gian không là chuyện quan trọng.

Quan trọng là: hôm ấy, môn đệ Chúa rất hãi sợ chuyện liên lụy. Sợ, bị nhốt giam hoặc hành hình, như Thầy mình. Nên, đã “cửa đóng then cài”, rất cẩn trọng. Bất chợt, Thầy hiện đến ở với các ngài. Thầy chào đồ đệ bằng câu lời chào thông thường, rất “Shalom”. Ở đây nữa, lời chào thông thường ấy, đã mang ý nghĩa của một lời chúc hoà bình: “bình an thật ở cùng anh em”.

Chào bình an, lời chúc gửi đến với đồ đệ/người thân, luôn mang theo một sứ điệp quan trọng. Thật rõ ràng. Rõ ràng, ở điểm: nơi đâu có Chúa hiện diện, nơi đó luôn có bình an đích thực. Sinh động. Rất vui sống.

Và khi có được bình an vui sống Chúa trao ban, thì kế tiếp Chúa đính kèm một sứ vụ: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” “Thầy sai đi”, là lời nhắn nhủ: anh em cứ đi đi mà truyền cho nhau cây “gậy” tiếp sức. Nghĩa là, ta hãy trao cho nhau công tác Chúa uỷ nhiệm, để rồi “Nước Chúa ở gian trần”, sẽ mau chóng được thiết lập, thôi.

“Nói xong, Người thổi hơi vào các ông”, tiếng Hy Lạp cụm từ “thổi hơi” “Thần khí” mang cùng ý nghĩa tương tự. Thổi hơi, để nhớ lại động tác Thiên Chúa từng làm, khi Người “thổi” Thần khí sống động vào bụi đất và đưa người đầu tiên trong trần gian đi vào hiện hữu. Đích thực. Ở đây nữa, động tác này mang tính cách một loại hình đầy sáng tạo. Tựa như, ta cùng với Chúa đồng công-sáng tạo “con người mới”, tức ý nghĩa mà thánh Phao-lô đề cập đến trong thư gửi các cộng đoàn: “Người tràn đầy Thần Khí Chúa, và được sai phái tiếp tục công việc Ngài vẫn làm.”

Làm theo phương cách nào? Và đây, là giải đáp Chúa đưa ra:“Anh em tha lỗi cho ai, người ấy sẽ được tha. Anh em cầm buộc ai, người ấy sẽ bị cầm buộc.”(Ga 20: 23). Nói thế, có nghĩa là: công việc của chúng ta nay là tác động của việc hoà giải. Hoà giải, giữa Thiên Chúa với con người. Hoà giải, giữa mọi người với nhau. Hoà giải, để: những anh em lâu nay lầm lỡ, sẽ trở thành con cùng một Cha. Hoà giải, để ta có thể chữa lành mọi đớn đau/tật bệnh. Và, để xoá bỏ mọi hờn căm/chia rẽ. Ngõ hầu, dựng xây Nước trời. Ngài gọi mời.

Hội thánh lâu nay dùng đoạn Tin Mừng hôm nay, làm nền tảng cho Bí tích Hoà Giải. Nhưng, ý nghĩa của lời Thầy uỷ thác, còn đi xa hơn. Lời Thầy không chỉ giới hạn trong khuôn khổ một Bí tích, thôi. Nhưng, mang tầm vóc rộng rãi hơn.

Bài đọc 1, cũng đề cập rõ hơn ý nghĩa này. Cũng là ý nghĩa, đã được thánh Luca diễn giải trong sách Công Vụ Tông Đồ, mà nhiều nhà chú giải đã kết nối với cuộc “Xuất hành lớn”, ở Cựu Ước. Tức, gợi nhớ dân con Đạo mình, về với biến cố Chúa giải thoát dân Người, khỏi cảnh làm thân nô lệ, đất Ai Cập.

Ở đây nữa, biến cố nói ở trên còn bao gồm nhiều yếu tố rất súc tích, như:

1. “Cơn gió mạnh” hàm ngụ Thần Khí đến, Tin Mừng thánh Gioan gọi là “Ngài thổi hơi

2. “Thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lửa, tản ra đậu trên từng người một”, Lời Ngài đây qui chiếu về trình thuật “Xuất Hành”, có ý nói đến quyền uy và sức mạnh của Thiên Chúa đang hiện diện. Đọc kỹ tin Mừng, hẳn ta sẽ nhớ đến hình ảnh “Lùm cây bốc lửa”, khi Thiên Chúa chuyện vãn với ông Môsê, và sau đó, trao cho ông sứ vụ về với dân mình. Ở đây cũng nhắc ta gợi nhớ đến “cột lửa về đêm”, luôn tháp tùng/dẫn đưa dân Do Thái qua hành trình trên sa mạc. Nói đến lửa, mọi người thời ấy đều hiểu rằng: không ai bị bỏ rơi, đơn độc.

Kỳ diệu ở đây, là: sự việc diễn tiến nơi trình thuật dẫn đến hiệu quả tuyệt vời, nơi các ngài.

Các thánh hôm đó, tuy vẫn “kín cổng cao tường”, sợ bị bắt. Các ngài cứ tưởng như mình bị “cơn gió mạnh” cuốn hút khỏi phòng họp, biến đi mất. Nhưng ngược lại, các ngài lại được chính “ngọn gió lành” ấy, thôi thúc việc sẻ san kinh nghiệm mình từng trải. Và như thế, là các thánh đã hội ngộ cùng Thần Khí Chúa, qua Thầy mình. Cũng từ đó, mọi đe doạ về những hành hình và bách hại, đã không còn cơ sở để khiến các ngài hãi sợ, nữa.

Bằng vào kinh nghiệm mình đang có, các thánh nay được trao ban quyền lực có đối thoại, và chuyển tải. Kể từ nay, sứ vụ của các ngài được mọi người đều biết đến. Các thánh không còn gặp trở ngại về ngôn ngữ, kiểu Babylon tháp ngà khi xưa. Kinh nghiệm đây, không phải là kinh nghiệm “nói tiếng lạ”, với mọi người. Nhưng, là kinh nghiệm cho thấy: sứ vụ Chúa uỷ thác cho mọi người, là thông điệp rất dễ hiểu. Hiểu rất dễ, vì thông điệp ấy chính là Lời Vàng Ngọc của Đức Kitô, nay đạt phần sâu thẳm nơi tâm can, của mỗi người.

Từ nay, không ai là “dân riêng Chúa chọn”. Nhưng, mọi người đã là con dân Đức Chúa. Bằng nhau. Như nhau. Tất cả đều đã được Chúa kêu mời. Còn lại là chuyện có đáp trả hay không, là tuỳ mỗi người. Và, mọi người. Đáp trả, là đối đáp và ứng phó với lời mời gọi, từ Chúa. Đáp trả, là hành động tự do, không thúc ép. Đáp trả, là để ta ra đi mà dựng xây Nước Trời. Ở trần gian.

Thần Khí Chúa đến với anh em, việc này đem lại kết quả ra sao?

Bài đọc 2, thánh Phaolô đã minh chứng: “Không ai nói được Đức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí”. Gọi Đức Giêsu là “Chúa”, không có nghĩa: chỉ thốt lên lời ca tụng, rất sốt sắng. Nói được lời như thế, phải có lòng tin đích thực. Tin vào Đấng được gọi là Giêsu Kitô. Tin, còn là chứng tỏ việc ấy có thể xác minh bằng đường lối ta vẫn sống.

Thêm nữa, Thần Khí là cội nguồn của mọi quà tặng rất đặc biệt, tức “đặc sủng”, mà mọi thành viên cộng đoàn dân Chúa, lâu nay vẫn nhận lãnh. Cội nguồn đặc sủng, chỉ là một. Một Thần Khí. Một Đức Chúa. Đấng Hiệp Nhất, con dân Ngài về một mối, tức cộng đoàn.

Nhưng, quà tặng cũng có nhiều loại. Nhiều cách. Cách gì đi nữa, cứ nhớ rằng: quà tặng ban, sẽ không là ân huệ tư riêng, của một ai. Ân huệ tư riêng là khả năng đặc biệt, mà mọi người được phép sử dụng ngõ hầu phục vụ lợi ích của cộng đoàn. Chính vì thế, mọi người chúng ta phải hợp tác. Phải cùng hành động. Cùng sử dụng chung quà tặng Ngài ban, ngõ hầu dựng xây cộng đoàn, cho tốt đẹp.

Nếu đếm, ta vẫn thuộc về số đông. Nhưng, bằng vào hoạt động của Thần Khí, ta đã thực sự trở nên một. Một Thân Mình. Một Đức Kitô. Tuy bao gồm nhiều cơ phận. Nhưng, mọi cơ phận đều hoạt động theo cung cách duy nhất. Và, nhờ Thân Mình Chúa làm Một với ta, mọi người sẽ góp phần tư riêng của mình, cho cuộc sống. Cho hoạt động của cộng đoàn. Đó, là điều mà thánh Phaolô muốn nói: “Là Do Thái, nô lệ hay tự do, ta đều đã chịu phép rửa. Trong cùng một Thần Khí, để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta được tràn đầy một Thần Khí duy nhất.” (1Cr 12: 13)

Thần Khí đây, là đường dẫn đến tự do đích thực. Có giải thoát. Thần Khí đây, không là đường lối của nô lệ. Nhiều cưỡng bức. Rất tham lam. Nghiện ngập. Hãi sợ. Qua Thần Khí, ta có được tương quan mật thiết với Chúa. Tương quan đặc biệt cho phép ta được gọi Ngài: “Cha ơi!”. Dấy tràn một Thần Khí, ta trở nên con cái Chúa, theo ý nghĩa trọn vẹn nhất. Ta lại được trở thành hình ảnh của Thiên Chúa, nữa.

Thần Khí biến cải ta thành người đồng thừa tự với Đức Kitô trong việc “cùng khổ đau với Ngài, để rồi sẽ cùng Ngài và trong Ngài, rất quang vinh”. Khổ đau đây, không giới hạn tự do ta đã có, bởi lẽ với quyết tâm trọn vẹn xả thân cho sự thật. Cho tình thương. Cho tư dọ đích thực. Cho phẩm giá con người, để ta được chuẩn bị mà trả giá cho bất cứ sự đầu hàng nào, nếu thấy cần. Không cậy nhờ Thần Khí, ta chẳng bao giờ thấy được hạnh phúc. Trong cuộc đời.

Trong tinh thần nhận Thần Khí, ta sẻ san niềm phấn khởi với mọi người, bằng câu hát:

“Thánh Thần, khấn xin ngự đến! Hồn con đang mong chờ Ngài.

Mở lòng, sáng soi đường đi, tìm chân lý công bình bác ái.

Ngài ơi, xin Ngài thương đến uốn nắn nẻo đi quanh co, sai lầm

Ngài ơi, xin Ngài hãy đến dẫn đi đường ngay.” (Thành Tâm – Thánh thần hãy đến)

Thần Khí đến. Sóng lòng dồn dập, như mây trôi. Nhiều ân lộc. Thần Khí đến. Ngài dẫn ta ra đi, theo đuờng ngay nẻo chính. Dâng cao. Cao tột, tận trên trời. Lồng lộng. Yêu thương. Rất tình người.

______Lm Phan Đỗ Thục Linh

Mai Tá diễn dịch.