Saturday, 18 December 2010

“À ơi! Hai tiếng làm người,


“Héo xuân chói hạ, nảy chồi thu đông.”

(dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

Lc 2: 1-14

Làm người, đâu nào khó đến thế! Làm người, như Chúa đã làm, bằng sự kiện Giáng Hạ, từ nơi cao sang vẫn là chuyện đáng nói. Và đáng làm, như một truyện kể rất hôm nay. Thời đại này. Bằng ngôn ngữ đời thường. Của người thường, như sau:

Thánh Luca viết trình thuật về ngày Chúa Giáng Hạ là viết cho người đọc sống cùng thời. Có người hỏi: nếu thánh sử sống vào thời đại rất hôm nay, hẳn thánh nhân sẽ dùng văn phong cung cách khác hẳn thời buổi trước? Đúng vậy nên, người đọc và nghe trình thuật hãy cứ tưởng tượng một cảnh trí qua đó, thánh nhân tay cầm máy vi âm, miệng lưỡi hùng hồn kể những điều rất như sau:

Thập niên đầu thuộc thiên niên kỷ thứ ba, vị tổng thống đại cường quốc số 1 thế giới, đã nhân danh tư cách lãnh đạo toàn thế giới, quyết định lập tổng kiểm tra dân số để, nhân đó, điều tra về vũ khí giết người hàng loạt, do Taliban sắm tậu từ một nước Hồi giáo ở Trung Đông. Đây là lệnh tổng kiểm tra lớn nhất từ trước đến nay, trong thời gian gần đây, khi toàn thể thế giới vẫn lo ngại về một thế chiến sẽ bùng nổ rất sớm, nếu không kịp ngăn chặn.

Vì là kiểm tra kê đặc biệt, nên người dân mọi nước đều phải chuẩn bị về quê thôn làng của mình. Kẻ, thì tòng chinh nhập ngũ. Người, mua tậu vũ khí rất tối tân hy vọng có thể cầm cự qua cơn bĩ cực mong ngày thái lai. Ai nấy đều lo toan quay về chốn miền sinh sống cũ theo đoàn/nhóm ngôn ngữ, sắc tộc, và tín ngưỡng. Bởi, chiến tranh có thể bộc phát bất cứ lúc nào. Và, ngòi nổ chiến tranh có thể xuất phát cả từ thôn làng hẻo lánh, ở khắp nơi. Dù, thế giới thứ ba. Châu Âu hay là châu Á.

Trình thuật tiếp tục kể về nhân vật thuộc sắc tộc ngoại bang, đang lang thang rày đây mai đó, ở đâu đấy. Ông có gốc nguồn là dân tộc Do Thái. Thuộc gia đình lao động loại cần cù. Mọi người đều gọi ông bằng tên tục rất thân quen, bố già Giuse. Bố xuất thân tận đất miền làm việc chẳng từ nan, cũng theo lệnh trở về nơi chôn rau cắt rốn, để làm thống kê.

Cùng đi với ông có người vợ trẻ đang mang thai gần ngày sinh. Hai vị tìm mãi không thấy nơi nào thích hợp để ở cữ. Nói gì đến việc tìm nơi ở vừa tiện lại vừa túi tiền được. Theo lệnh của lãnh đạo ở cấp cao, nên bà con lũ lượt trở về, thi hành lệnh. Do đó, nhà trọ và khách sạn đều hết chỗ. Hiền mẫu trẻ, đành hạ sinh em bé rất hiền hoà, ở góc bụi. Nơi công viên ít người héo lánh. Bà tìm vội ba tấm vải thô làm tã lót quấn thân mềm của em bé. Cũng chỉ qua quít để Hài Nhi thấy bớt lạnh, ngày Đông giá.

Ở cạnh đó, thấy có đôi phần tử “tứ cố vô thân” thay nhau để mắt canh chừng kẻ làm hỗn. Hầu tránh khỏi mọi trục trặc xảy đến lúc tối trời. Chính vào lúc ấy, họ phát hiện ra bé em đang nằm gọn trên đôi tay bà mẹ trẻ. Mẹ vỗ về em bé với lời ru ời ợi, cạnh “Bố già” có dáng vẻ khá thấm mệt, dính bụi đường xa. Trước cảnh tượng ít thấy xảy ra, đám “bụi” lân la cùng mấy chú khuyển trông ngó bé em bằng cặp mắt rất thân thiện.

Với đám người “sống vô gia cư chết vô địa táng” chuyên “lang bạt kỳ hồ”, thì lệnh tổng kiểm tra có ghê gớm đến thế nào đi chăng nữa, cũng chẳng làm họ bận tâm. Điều, khiến họ bận đến tâm can hơn cả là: ngó chừng cho bé em qua được đêm dài nhiều trắc trở. Với họ, thân phận của bé em chắc rồi cũng sẽ đổi dời cả một thế hệ. Bởi, chỉ sự hiện diện của bé em thôi, đã đem lại cho họ cả một an bình họ tìm mãi, vẫn không thấy.

Kể từ đây, kẻ không nhà không cửa như họ, nay mới biết thế nào là niềm vui đích thực khi gần cận với bé em. Niềm vui ấy, nay thấm nhập thẳng tận tâm can khiến họ cứ đi đây đó mà kể lại cho bạn bè đồng trang lứa. Kể, để mọi người biết chuyện mà tìm đến. Tìm, để được bình an trong tâm hồn. Đến, để phổ biến tin vui an bình, Ngài vẫn hứa. Đồng giọng với họ, có đủ mọi giọng ca vang từ đâu đến hát khen những nốt nhạc, thật sự vui.

Càng vui hơn, khi mọi người nhìn được tận mắt ánh thân thương mẹ hiền nhè nhẹ trân trọng mừng đón cảnh tình của bé em. Điều đó, đủ chứng tỏ cho họ thấy Bé đích thực là Đấng mà mọi người đợi trông.

Càng vui nhiều, khi người người nhận ra sứ vụ của thiếu niên Giêsu nay khôn lớn, đã trở về thôn làng quê mẹ sống đời thầm lặng những lao động và lao động, nối nghiệp người bố đời từng là công nhân, tạm kiếm sống. Đến ngày “N” vinh hiển, Ông lại đã cùng đồ đệ và người thân đặt chân ghé viếng khắp nơi, từng xóm làng nghèo nàn hẻo lánh. Mỗi nơi, khắp chốn Ông cùng đoàn người thăm viếng từng nhà. Hỏi han từng người. Khuyến khích họ thực thi ý định của Cha, là tái lập cuộc sống có vui mừng thực sự. Biết yêu thương, giùm giúp hết mọi người.

Bạn bè người thân trong cùng nhóm với Người, từ khi ấy, cũng đã đi khắp đó đây phổ biến sứ điệp Chúa gửi gắm: Nước trời đã gần kề. Hãy trở về mà sám hối. Hãy sống cùng nhau dựng xây Vương Quốc của Chúa, ở trần gian. Ở nơi đó, người người sống theo cung cách lao động tuỳ khả năng, hưởng thụ tuỳ theo nhu cầu, rất Nước Trời. Cũng từ đó, sứ điệp Bình An của Nước Chúa, đã nhanh chóng lan toả khắp nơi nơi. Khiến mọi người đến với nhau, trong tinh thần hoà hoãn. Yêu thương. Đùm bọc.

Chính đó, là khúc gai nhọn thách thức giới cầm quyền, khiến họ cho người theo dõi. Cuối cùng, đám cầm quyền bèn sai ba quân đến, lấy cớ để điều tra, nhưng đíc thực ra lệnh tống giam Người vào ngục tối. Sau một hời, đã cho người đến thủ tiêu, phi tang mọi bằng cớ. Để mọi người không còn biết Ngài là ai. Sao Ngài lại thế.

Nhà cầm quyền muốn triệt hạ Ngài bằng mọi phương cách gian giảo nhất. Nhưng ba quân cầm quyền chẳng làm sao ngăn chặn được làn sóng người từ khắp nơi nay nghe biết, đã bắt đầu thực hiện những điều Ngài dạy răn, cứ thế mà lan truyền học thuyết nhân từ Ngài chủ trương: lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Học thuyết ấy, nay trở thành sự thật rành rành gắn chặt tâm can của con người.

Kể từ đó, mọi năm cứ vào ngày này, hậu duệ của Ngài ở khắp nơi cứ thế họp nhau mà mừng kính sự kiện “có một không hai” trên cõi đời. Gặp ai cũng thế, người người kể cho nhau nghe chuyện Giáng Hạ của Bé em mang tên Giêsu. Để rồi, mỗi lần làm thế, họ đều hiểu tường tận ý nghĩa của sự kiện Ngôi Lời Nhập Thể, nhập cả ơn lành bình đến với những người được Chúa đoái thương.

Đi đâu cũng vậy, con cháu Ngài vẫn lập đi lập lại lời ca vang hôm trước, mà hát:

“Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ." Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:

"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho loài người Chúa thương."

(Lc 2: 10-14)

“Đừng sợ! Chính Ngài là Đức Chúa. Là, Đấng Cứu Chuộc muôn người!” Đó, là ý nghĩa của lễ hội Giáng Sinh. Lễ hội, mừng Chúa xuống thế làm người sống với ta. Thương yêu ta như anh em cùng nhà. Nhà Thiên Chúa. Nhà mọi người.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai tá lược dịch.

Saturday, 11 December 2010

“Từ độ vầng trăng tắt bóng trên đồi’”


ta mang thơ đi vào đời máu chảy.”

(dẫn từ thơ Trần Trung Đạo)

Mt 1: 18-24

Đem thi ca vào đời, nhà thơ rày thấy máu chảy. Thấy vầng trăng tắt bóng, ở trên đồi. Đem tình thương đến với người đời, nhà Đạo thấy được bình an ơn cứu độ, Chúa gửi đến.

Bình an cứu độ, thánh sử diễn tả bằng ngôn ngữ của đời thường, nên nhiều lúc thấy cũng chệch hướng. Tương tự như, chủ nhà nuôi chó cưng ở nhà là Tôtô, mỗi lần đưa ngón tay muốn chỉ về phía nào đó có thức ăn, thì chó nhỏ thường nhìn vào tay chủ, chứ nào biết chủ muốn mình nhìn về đâu, mà hướng tầm mắt. Người mình thường cũng thế. Mỗi khi lặng nhìn máng cỏ Chúa Hạ Sinh, người đời chỉ nhìn vào cảnh trí, chứ để ý gì đến ý nghĩa của Máng cỏ muốn nói lên!

Ảnh hình “Máng cỏ” bao giờ cũng chỉ là máng ống đựng thức ăn của loài thú, dù vào mỗi dịp Giáng Sinh vẫn thấy đầy trên thiệp giấy. Hoặc, trong hang đá thường đặt ở thánh cung để người người thưởng lãm. Và, các thánh sử nào kể vể thú đàn nằm cạnh thánh Giuse và Đức Maria đâu? Thật ra, thú loài nuôi ngoài đồng chỉ quanh quẩn ở ngoài trời, với chủ chăn, thôi.

Trình thuật, nay kể về Đức Maria và thánh Giuse cố tìm “nhà trọ” để Mẹ Chúa có chỗ hạ sinh Đấng Cứu Thế. Nhưng, nhà trọ không còn chỗ (Lc 2: 7). Cụm từ “nhà trọ” mà thánh sử ghi lại, thật sự lại mang ý nghĩa, rất khác biệt. Tựu trung, đây chỉ là “sàn đất căn hộ được dùng làm nơi tạm thời trú ngụ, mà thôi”. Tại sàn đó, loài thú đôi lúc cũng kéo đến nằm dài, để nghỉ ngơi. Bởi thế nên, trình thuật mới đề cập đến máng đựng thức ăn, ngõ hầu xác chứng tình trạng nghèo, rất cùng cực.

Tuy thế, nếu người đọc quá chú trọng đến ngôn từ “máng cỏ”, họ sẽ quên đi những gì được thánh sử nhắc đến, ngay từ đầu. Trước nhất, đây là “dấu hiệu” để kẻ chăn biết rõ Chúa là ai, để kiếm tìm.

“Máng cỏ” đây, là để mục đồng/trẻ bé thấy những gì thần sứ trên cao từng nói đến, là chuyện rất xác thực. Là, nôi ấm Chúa Hài Đồng tìm đến để trú ngụ. Bởi thế nên, thoạt nhìn thấy, mục đồng/trẻ bé đã hiểu rằng Hài Nhi là chính Chúa đến với những kẻ nhếch nhác, hèn mọn, rất hỗn độn. Giống hệt như mình. Quả thật là thế, khi Đức-Chúa-nhập-cuộc, Ngài chấp nhận cảnh nằm dài trên sàn đất với khách lạ/người dưng. Với kẻ nghèo.

“Máng cỏ” nói ở đây, để chỉ có tầm vóc quan trọng như bảng-chỉ-đường, hoặc ngón tay trỏ của người chủ luôn chỉ hướng cho loài chó nhỏ biết mà chạy đến. Hướng ở đây, là phương hướng của an bình cứu độ, Ngài đạt tới. Hướng ở đây, còn là phương hướng được thánh sử giải thích rõ ở trình thuật. Phương hướng ấy, nay thể hiện nơi Hài Nhi bé bỏng vừa chào đời đã được chúc tụng/ngợi khen là “Con Thiên Chúa” rất Hằng Sống. Và, người dấn bước theo chân Chúa vẫn coi Ngài là Đấng Mêsia Cứu Độ. Chúa của muôn loài.

Nội một việc Hài Nhi bé bỏng hạ sinh ở xứ làng nghèo Ở Bê-Lem thôi, cũng đã dấy lên tranh chấp lớn giữa “Vương Quốc của Đức Chúa” với “dương gian chốn ngút ngàn”, của La Mã. Vương quốc của Chúa chỉ yếu ớt, không đáng kể. Dễ bị hại. Trong khi đó, dương gian ngút ngàn chốn đế đô La Mã lại là uy quyền dũng mãnh, độc quyền, và chuyên chế. Bởi lẽ, Hoàng đế Augustô của La Mã chả bao giờ nghe biết Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.

Với thế trần, chuyện gọi Đức Giêsu là Chúa, có nghĩa là người ấy chối bỏ danh tánh chức phận của Cesar. Và, sở dĩ dân con theo Chúa ở thế kỷ đầu vốn bị bách hại, chẳng phải do họ cứ để trong đầu các ý tưởng kỳ quái đó. Mà vì họ dám phản chống tư cách rất lãnh chúa của vua quan. Phản chống, vì dân con Đạo Chúa không tin vào “lãnh chúa” đang thống lĩnh dân gian. Trái lại, họ tin Chúa mới là Chúa đích thật của mình, thôi. Trong khi đó, Hoàng đế La Mã cho rằng: hành xử của Đức Giêsu chỉ là để tiếm quyền. Để, khinh chê quyền bính của Hoàng đế, đang quản cai, áp bức dân con nghèo túng, rất thấp hèn.

Chính vì thế, nên mỗi khi nhìn ngắm “máng cỏ” ở thiệp mừng chúc hay đâu đó, ta cũng đừng nên dừng lại ở đó. Trái lại, hãy coi đó như đường hướng đem ta về với sự thật rất nổ bùng khi xưa, nơi Hài Nhi nhỏ bé, nhưng lại chính là Vua Cha đích thật của mọi người. Phần còn lại của trình thuật, là phần diễn nghĩa giúp ta hiểu cung cách rất mới lạ Chúa giáng lâm.

Với thánh sử Mát-thêu, Chúa giáng lâm theo cung cách của vua quan thuộc giống giòng hào kiệt xuyên suốt mãi tận thời đại của Đavít. Bảo Ngài thuộc giống giòng hào kiệt, là vì: trong cả 3 phần của trình thuật về gia phả, mỗi phần đều gồm những 14 thế hệ. Có chỗ là lịch sử được viết rõ; có chỗ chỉ là truyền khẩu, thôi. Thậm chí, còn vài vị mang dáng dấp rất thần thoại. Có vị lại thuộc phường giá áo, túi cơm. Rất chao đảo. Tất cả, chỉ để nói rằng: ơn cứu độ không chỉ đến với giòng dõi rất tinh khiết của chi tộc Israel thôi, nhưng cả với dân thường, giản đơn và đớn hèn, nữa.

Dẫn vào trình thuật hôm nay, là đoạn viết về gia phả của Chúa. Ở đây, thánh Mát-thêu mô tả thánh cả Giuse là vị anh hùng cái thế, của muôn người. Thánh nhân đã thành thân với Đức Maria theo luật định. Rất đúng mực, theo tập tục người Do thái. Tất cả mọi chi tiết, được thánh sử dẫn nhập vào trọng tâm trình thuật để nói về nguồn gốc của Đức Chúa.

Trọng tâm ấy, thánh sử muốn nhấn mạnh đến cơn khủng hoảng về lương tâm mà thánh Giuse đang gặp phải. Khủng hoảng, là ở chỗ thánh nhân biết rõ vị hôn thê của mình đã có thai, lại ở vào tuổi đời còn quá trẻ mà luật pháp không cho phép. Thành thử, cuối cùng thần sứ Chúa phải đến cứu bằng một thẩm định chính đáng. Xác thực.

Khủng hoảng, còn ở điểm thánh Giuse, nhân vật chính của trình thuật, không phải là thánh Giuse của truyền thống ngoan Đạo, trong Giáo hội thời đó. Vì theo luật thì vị hôn thê của thánh nhân có thể sẽ bị ném đá cho chết một khi dám gần gũi và mang thai với người khác không phải là chồng mình. Khủng hoảng, là khủng hoảng của người “công chính” vì vẫn phải giữ luật.

Thế nên, khủng hoảng này chỉ được giải quyết khi chính Đấng là Chủ của luật lệ đã đích thân mạc khải cho thánh nhân phương cách để giải quyết. Tuy không hiểu rõ cho lắm, nhưng thánh nhân vẫn tôn trọng nhiệm tích Chúa ban, và đón nhận ơn mạc khải soi sáng với tất cả sự tôn kính của bậc hiền nhân quân tử. Với sự trợ giúp của chính Chúa, thánh Giuse đi đến quyết định chung cuộc đành phải hành xử theo cung cách xung khắc trái với luật lệ của người đời thời đó, để chấp nhận “luật chơi” của Thiên Chúa. Và, sau một đêm dài phấn đấu, thánh nhân đã đón nhận Đấng Cứu Độ của mình. Thánh nhân chấp nhận đưa tên tuổi mình vào gia phả thánh, bằng hành xử đón Chúa đến, qua sự việc Giáng Sinh. Rất quang vinh.

Quả thật, ta sẽ chẳng thể nào hiểu được tính chất rất bi kịch của trình thuật, nếu mọi người không đối chiếu với truyện kể Abraham được lệnh phải hy sinh con mình là Isaac, làm của lễ như luật lệ đã qui định. Kịp khi ấy, thần sứ của Giavê đến cản ngăn. Ban trả lại cho ông vị quí tử và đưa ông vào tương quan thật rất mới.

Cũng trong chiều hướng tương tự, bài đọc 1 đã sử dụng sách tiên tri Isaya, với đoạn trích nói rất rõ: “Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu lạ: này đây người thiếu nữ mang thai và hạ sinh con trai, đặt tên Ngài là Em-ma-nu-en.” (Is 7: 14). Tức, Thiên-Chúa-Ở-Cùng.

Bài đọc 2 trích lời thánh Phaolô quả quyết với dân thành Rôma, là giáo đoàn còn hoang mang, vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của ơn cứu độ thể hiện nơi Chúa-Làm-Người, bằng những câu: “Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Đức Kitô Giêsu; tôi được gọi làm Tông Đồ và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ mà hứa trước trong Kinh Thánh. Là, Tin Mừng về Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 1: 1-2)

Bằng vào tin vui rất mừng ấy, người người hôm nay, thay vì mừng kính lễ hội đình đám những vui chơi, ta hãy nhận biết rằng: lời ngôn sứ khi trước nay đã thành hiện thực. Lời ấy, là thế này: Đấng-Mêsia-Làm-Người được Chúa gửi đến với trần gian hôm nay không chỉ là Hài Nhi Bé Nhỏ Giáng Hạ cho trần thế, rất chân phương. Hiền lành. Nhưng, Ngài chính là Đấng Mêsia đến ở với chúng ta. Bây giờ và mãi mãi. Suốt mọi thời.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch.

Saturday, 4 December 2010

“Gió chiều cầu nguyện đâu đây.”


“Nắng chiều cắt đoạn một ngày cuối thu”.

Mt 11: 2-11

Nguyện cầu có nắng gió ngày cuối thu, hãy cứ làm. Đợi chờ ngày Chúa đến, có vui chơi hát hò ngày Chúa đến, cứ hân hoan.

Phụng vụ tuần thứ 3 mùa Vọng, mang sắc mầu hân hoan rất vui chơi và nguyện cầu. Nguyện và cầu với sắc mầu hồng tía, vào mùa tím. Một mùa, có lời dặn “hãy vui lên, hỡi sa mạc nóng cháy. Hãy vui mừng, hỡi cỏ khô hoang địa”. Vui và mừng, có nụ cười râm ran. Chứa chan hy vọng, một buổi chiều. Dù mùa Đông lạnh lẽo. Hoặc, mùa hạ ở Nam bán cầu, rất nóng cháy.

Trình thuật, nay nhấn mạnh một điều quan trọng và mừng vui hơn những gì dân con Đạo Chúa đáng được hưởng. Đó, cũng là ý tưởng của thánh Gioan, khi thánh nhân khuyên răn mọi người hãy để lòng mình trùng xuống, mà sám hối. Với thánh Gioan, sám hối là sám hối trong nguyện cầu, chưa có nụ cười nở trên môi. Đợi tới lúc Đức Giêsu đến, Ngài mới đem theo nụ cười, cả vào lúc loài người chủ trương sám hối, để ngóng chờ.

Nụ cười vui, Chúa đem đến cho kẻ đợi chờ Ngài, nay thấy rất rõ nơi tâm tình mừng kính Chúa Giáng Sinh, ở đời người. Tâm tình, thể hiện nơi cung cách lẫn ý nghĩa của mỗi hành xử. Trước nhất, là lẵng hoa có lá cành của cây trạng nguyên quấn vòng quanh 4 ngọn nến. Để thắp sáng suốt 4 tuần lễ mùa đợi chờ. Màu xanh của lá, là mầu truyền thống có từ thời xưa ở Yuletide, xứ Xcăng-đi-na-vi.

Người Na-Uy rất thích mầu xanh, cả trên băng tuyết. Người Ái Nhĩ Lan cũng làm thế, là để tỏ rõ một biểu tượng của lễ hội, dù người người đang ở vào mùa băng giá. Trong khi đó, cây thông Noel lại có gốc nguồn từ sử hạnh của thánh Bônifaxiô, ở bên Đức. Nến cháy ở lẵng hoa, lại xuất xứ từ Đức, vào thời Luther, người khởi xướng đạo Thệ Phản. Chí ít, là tập tục của đêm ca hát nhạc Giáng Sinh, rất linh đình như bài “Đêm Thánh Vô Cùng”, “O Tannebaum”, cũng xuất xứ từ các nền văn hoá rất đa dạng. Có khi còn kình chống nhau về chánh kiến, với thần học.

Tóm lại, lễ hội mừng ngày Chúa Giáng Hạ, rày diễn tả tình tự hài hoà, bình an. Không cần biết người mừng lễ, có gốc nguồn từ đâu tới.

Truyện kể về Ông già tuyết mà mọi người ở trời Tây có thói quen gọi là “Santa Claus”, là truyện tích kể về sử hạnh thánh Nicholas, một đấng bậc người Hoà Lan nhưng lại có nguồn gốc phát xuất từ tập tục miền Nam nước Ý. Trong khi đó, nai gạc tuần lộc chuyên chở quà giúp ông Già Tuyết phân phối lộc thánh lại thuộc giống giòng chốn Nữu Ước, nhiều năm trước.

Tóm lại, mỗi khi mừng ngày hội Chúa Giáng Trần, đa phần người các nước đều tổ chức giữa mùa Đông rất băng giá, đều là tập tục của lễ hội từ người ngoài Đạo, chỉ muốn chuyện vui tươi, hiền hoà gửi đến hết mọi người. 25 tháng Chạp, chưa hẳn là ngày Chúa chào đời. Tuy nhiên, ngày ấy vẫn đánh dấu một kỷ niệm Giáo hội thời tiên khởi vẫn muốn chung vui ngày lễ mừng thần nông Satuya, từng định vị ngày 17-19, rất tháng Chạp.

Tất cả mọi chi tiết dù có khác, vẫn chỉ muốn nói lên tính đa dạng ở văn hoá dân con Đạo Chúa, suốt từ lâu. Đa dạng, nhưng không đa tạp, cả vào lúc người Việt ở Nam Bán Cầu vẫn hát bài “Đêm Đông Lạnh Lẽo Chúa Sinh Ra Đời” của Hùng Lân. Dù, những ngày ấy thời tiết nóng cháy đến 38 độ. Hát gì thì hát. Mừng gì thì mừng. Ta vẫn cứ mừng bằng niềm tin ngày Con Thiên Chúa Giáng hạ làm người, để ở với chúng dân. Rất hài hoà. Bình an.

Biết được thế, là nhờ các đoạn Tin Mừng được thánh Mát-thêu và Luca ghi chép. Hai thánh sử đểu đã bỏ ra nguyên hai chương đầu của Sách để kể về Đức Giêsu, thuở thiếu thời. Về trình thuật thời niên thiếu của Chúa, thánh Luca viết nhiều hơn thánh Mát-thêu. Nhất thứ, là chi tiết/dữ liệu. Tuy nhiên, cả hai thánh sử đều ghi chép theo văn phong/văn bản, rất khác biệt về tình tiết. Ý niệm. Mặc dù thế, cốt lõi của trình thuật, vẫn giống nhau.

Trình thuật được hai thánh sử ghi lại, đều có kể về hạnh thánh Giuse và Đức Maria. Dù, hai đấng đã đính hôn theo tập tục Do thái, nhưng các ngài lại không sống chung. Cùng nhà. Thánh Giuse thuộc giống giòng hào kiệt, rất trâm anh. Giòng Đavít. Còn Đức Maria, lại là thiếu nữ trắng trong, một lòng một dạ giữ mình khiết tịnh. Chợt đến lúc, sứ thần thiên quốc hiện đến báo tin lành Mẹ sẽ cưu mang và hạ sinh, Đấng Cứu Thế. Rồi, đề nghị đặt tên Trẻ Bé, là Giêsu. Và, Hài nhi Giêsu đà Giáng hạ ở thôn làng Bét-Lê-Hem, xứ Đạo cùng cực thuộc vùng Giuđêa, rất nổi tiếng. Kịp đến khi Ngài khôn lớn, Thiếu Niên Giêsu mới trở về Nadarét thuộc đất miền Galilê, trở thành Giêsu Nadarét, như Kinh Sách từng báo trước.

Truyện kể ngày Chúa Giáng Hạ, mang tính chất rất “người”, là để nói lên đặc tính “có một không hai” Tình Chúa Thương, rất đặc biệt. Ngài thương yêu loài người đến độ đã tặng ban cho ta, chính Người Con Duy Nhất của Ngài. Chính đó là quà Giáng Sinh, thật chân tình. Chính đó, là quà quý giá, Ngài đem đến có đính kèm sự Bình An/hài hoà cho muôn người. Ngài chính là sự Bình An, Hài Hoà bằng xương thịt. Vì ngày xưa, loài người vẫn sử dụng tập tục Giáng Sinh để biểu trưng tính Hài hoà/Bình an, rất chân chính.

Tin Mừng mùa Vọng, còn hàm ngụ một chi tiết khiến mọi người ngạc nhiên. Đó là: vào các tuần trước đó, Tin Mừng từng đề cập đến ngày thế tận, có bạo lực, khổ đau, âu sầu mà người người đều cảm nghiệm. Tiếp theo đó, các thánh sử còn trích dẫn lời thánh Gioan Tẩy Giả, kêu gọi mọi người hãy về nơi vắng vẻ, để sdám hối/nguyện cầu, nơi hoang vắng. Tất cả, cốt ý làm nổi bật hình ảnh Đức Giêsu, Đấng Mêsia Giáng hạ mà mọi người kỳ vọng.

Dù là bà con bàng tộc với Đức Giêsu, thánh Gioan vẫn chủ trương cuộc sống nhiệm nhặt, nặng chất âm thầm, khắc khổ. Ăn, thì thánh nhân kêu gọi đoàn người theo chân ngài hãy dùng thức ăn đặc biệt của sa mạc. Tức, gồm toàn cây trái. Mật ngọt của đàn ong. Mặc, thì chỉ mặc vải áo giản đơn, rất bắt nắng. Nóng bỏng. Và, lời thánh nhân khuyên răn, lại chuyên chú những cải tân. Sám hối. Dọn lòng cho trống vắng, hầu đón rước Đức Chúa vào với đời mình. Thánh nhân chủ trương khuyên bảo mọi người hãy đón rước Đấng Cứu Độ, trong tinh thần nhiệm nhặt, giản đơn mà Cựu Ước từng đề cập.

Còn, Đức Giêsu, thì Ngài lại bảo: Thời đã đến. Thời đây, là Thời của An Bình/Hài Hoà, rất đích thật. Và, muốn được Bình An/Hài Hoà Chúa hứa ban, dân con mọi người hãy một lòng đổi thay cả tâm can, lẫn đầu óc. Thay và đổi, ngay cả động thái mình quyết sống. Thay và đổi, để rồi sẽ bỏ lại đằng sau, mọi tranh chấp. Rất bạo động. Thay và đổi, không chỉ trong phút chốc. Nhưng còn đổi và thay, như Tin Mừng Ngài mang đến.

Tin Mừng Chúa đem đến, sẽ không còn như tin về ngày thế tận, rất đáng sợ. Tin rất Mừng, Ngài chủ trương, chính là quà tặng Chúa đem đến với mọi người. Chính là Bình An, Hài hoà mà trước đây chẳng ai đem đến. An Bình/Hài hoà, không chỉ xảy đến, mỗi ngày vui. Dù, người người có gọi ngày ấy là lễ hội Giáng Sinh hay linh đình ngày Ông Già Tuyết phát quà cho em bé. An Bình/hài hoà, vẫn sẽ là và luôn là, quà đích thực Chúa gửi đến hết mọi người. Mỗi ngày, và mọi ngày. Chí ít, là những người được Chúa đoái hoài. Thương mến.

Thành thử, vào với Tiệc Thánh ta tham dự ngày Đại Lễ, hãy chuyển đến hết mọi người quà tặng Bình An/Hài Hoà Chúa vẫn ban. Để, người người không chỉ vui chơi nhận lãnh thứ quà tặng hời hợt chóng qua, dù được bao bọc bằng sắc mầu/hình thái gì đi nữa. Chuyển quà Chúa ban, còn để mọi người nhớ mà cảm tạ. Cảm tạ Chúa, vì nay mình có thể sử dụng mọi hình thức biểu tượng, đặc trưng của văn hoá đa dạng, từ ngàn xưa, như ảnh hình của Bình An và Ân Sủng. Ảnh hình ấy, đích thực là chính Đức Giêsu bằng xương bằng thịt, đã đến với thế gian. Đã trở thành người, như mọi người. Đó, chính là lý do rất thực, để ta vui chơi. Ăn mừng. Và, tưởng nhớ. Nhớ Đức Chúa đang hiện diện nơi mọi người, bằng sự kiện Giáng Sinh. Linh đình. Ngày Hội lớn.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch