Saturday, 4 April 2009

“Tình đã chết, có mong gì sống lại”

Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.

(Dẫn nhập thơ Trần Dạ Từ)

Ga 20: 1-18

Tình nhà thơ, nay đà chết. Nào những mong, tình sống lại. Lòng nhà Đạo, dù khi xưa tuy có chết. Nhưng, nay đà sống lại cùng Chúa. Với Chúa. Với cộng đoàn thân thương, có chứng nhân. Nhân chứng hôm nay, hân hoan mừng Chúa sống lại. Vui vầy. Rộng khắp.

Mừng Sống Lại, ta không chỉ loanh quanh việc gợi nhớ. Nhớ giây phút Chúa sống lại, đánh động tâm can đồ đệ, thôi. Nhớ Phục sinh, là nhớ rằng ơn cứu độ đã ảnh hưởng lên cuộc sống và niềm tin của con dân. Nhớ Phục sinh, còn là nhớ lời gọi mời đổi mới. Đổi tận gốc rễ, như đồ đệ Chúa đã làm, thời tiên khởi. Nhớ Phục sinh, không chỉ là tin tưởng và loan báo việc Chúa sống lại. Nhưng, còn phải tác động lên điều mình tin. Lên, tình thương yêu. Rao giảng.

Bài đọc 1, thánh Phêrô nói đến kinh nghiệm mà thánh nhân muốn sẻ san với cộng đoàn đang nghe giảng. Là môn đồ gần cận, thánh nhân san sẻ với mọi người kinh nghiệm về giảng rao. Nhờ có kinh nghiệm rao giảng, thánh nhân biết xác đáng rằng Đức Giêsu đã chết trên thập giá, nay đang sống với các thánh, trong niềm vui đầy tràn. Và, các thánh san sẻ niềm vui ấy với mọi người. Để, ai nấy cùng vui như Ngài. Với Ngài.

Bài đọc 2, Phaolô -một Pharisêu cương nghị- từng bức bách con dân của Chúa, cũng có kinh nghiệm về sự sống lại, với riêng mình. Và, thánh nhân đã hồi hướng trở về. Về cùng Chúa, ngay trên đường bách hại, ở Đamát. Hồi hướng trở về, thánh Phaolô đem dân con Chúa về với cộng đoàn tình thương.

Qua kinh nghiệm, Phaolô thánh nhân đích thân thay đổi cuộc sống. Bằng vào kinh nghiệm sống lại, thánh nhân đã có thị kiến mới về mọi sự. Đặc biệt, về cuộc sống của Đức Giê-su. Về thông điệp Ngài đem đến. Cuối cùng, thánh nhân đã sử dụng trọn vẹn năng lực của mình để phục vụ. Phục vụ, theo cùng một cung cách khi trước, hầu giúp đỡ mọi người biết yêu thương và dấn bước theo chân Chúa.

Trình thuật hôm nay, kể về “Mộ trống” như dấu hiệu Chúa về lại với cuộc sống, bình thường. Và thánh sử kể về sự kiện Maria Magdala và đồ đệ Chúa đến mộ phần, chứng kiến và tin vào Chúa Phục Sinh. Tin, là tin vào Tin Mừng, như đã viết: “Hai ông chưa hiểu rằng theo Kinh thánh (tức Cựu Ước): Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20: 9). Tin và hiểu, như hai vị tông đồ trên đường Emmaus, cũng được giải thích, để hiểu rõ. Tin và hiểu, là biết chấp nhận một sự thật: Chúa chấp nhận khổ đau và sống lại, quả đúng như điều được ghi trong Cựu Ước.

Suy cho cùng, ta cũng hiểu: Phục sinh không chỉ đơn thuần là phục hồi sinh lực cho cơ thể Chúa. Phục sinh, không đơn thuần là chuyện tai nghe mắt thấy. Thấy, như đã thấy việc Chúa bị đóng đinh, một sự kiện lịch sử. Mà, Phục sinh, chính là sự kiện của niềm tin. Đức Chúa Phục sinh, nay sống lại để đi vào cung cách mới, của sự sống.

Các văn bản sau ngày Chúa Phục sinh, cho thấy: Ngài không được các tông đồ gần cận, nhận thức trước. Ngài ở bất cứ những nơi mà đồ đệ Ngài đi đến. Chúa Phục Sinh ở phải được hiểu, là Ngài mang nơi Mình Ngài, một hình thức tân tạo. Mang cung cách hoàn toàn mới mẻ, để hiện hữu ở với ta. Và, cung cách mới chính là cộng đoàn dân con. Là, Thân Mình hiện thân nơi Nước Trời, ở trần gian. Là, tương quan dân con, của Đức Chúa.

Đọc tiếp trình thuật, ta sẽ thấy: thánh Phêrô và “môn đồ được Chúa thương” đích thân chứng kiến Chúa sống lại, đã chạy về kể cho bạn bè nghe những điều mình “tai nghe mắt thấy”. Riêng Maria Magđala, người nữ phụ đầy lỗi phạm khi trước, nay đã dâng trọn đời mình để Chúa dẫn dắt. Chính nhờ thế, Thầy Chí Ái đã vui lòng ở lại, với chị. Với mọi người.

Với Maria Magđala, mặc khải “Chúa sống lại” là sự kiện: có thiên thần hiện diện, tức do Chúa. Và, khi ngước mắt quay nhìn, chị thấy Chúa nhưng không nhận ra. Đó là điều, khiến chị bật thành tiếng khóc trong mừng vui. Vui, vì biết rằng Chúa Sống Lại đã hiện ra với chị. Với người đời. Thế mà, chị cứ ngỡ Ngài là “người làm vườn”.

“Người làm vườn”, lời Tin Mừng được thánh Gio-an nhiều lần nhắc đến. Vườn, là chốn địa đàng, nhị vị tiên tổ từng ngã phạm (Kn 2: 23). Vườn, là nơi chôn Chúa, chốn cứu chuộc (Ga 19: 41). Vườn, là khu lưu giữ chiên đàn, Chúa nói đến (Ga 10: 1-5). Tựu trung, Chúa Phục Sinh từng gọi tên Maria Magđala để mặc khải, hay gọi tên chiên con, đều ở đây. Trong vườn.

“Thôi đừng giữ Thầy lại”, điều này chứng tỏ: dân con Đạo Chúa cứ đeo đuổi bám víu vào con người “cũ” của Đức Chúa. Trên thực tế, Đức Giêsu nay đã về với Cha, trong quang vinh. Về với Cha, Ngài hứa sẽ trở lại, nhưng theo cung cách khác. Bằng một thực thể mới mẻ, khác lạ. Và, ta chỉ gặp Ngài, nơi những người được coi là đồ đệ. Người liên kết làm một Thân Mình Chúa. Một Hội Thánh Chúa. Ở địa phương.

“Tôi đã thấy Chúa!”, lời kể của Maria Mác-đa-la, người nữ phụ từng phạm lỗi, rất nặng theo luật Do Thái, cũng là của phụ nữ, những người có vị thế rất thấp trong xã hội. Nhưng, với Tin Mừng, lại được ưu tiên cao. Ưu tiên được biết trước nhất, chuyện Chúa sống lại. Đó chính là mục đích cũng như ý nghĩa của sứ vụ rao báo Tin Mừng. Rao báo, không chỉ là chuyển giao triết lý của lòng tin. Mà còn là, san sẻ cho nhau những kinh nghiệm mình chứng kiến.

Kinh nghiệm được gặp và được thấy Chúa trong cuộc đời, của chính mình. Rồi sau đó, mời gọi mọi người cùng làm như thế. Mừng kính Chúa Phục Sinh, ta cũng được gọi mời cùng một cung cách như thế. Gọi và mời, như Phêrô thánh nhân, Maria Mácđala và đồ đệ khác, theo một kiểu. Một kiểu cách như bài đọc hôm nay, cho thấy.

Đọc thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô, ta đều thấy: lời mời gọi Phục Sinh là một gọi mời hồi hướng trở về, tận căn rễ. Là, thanh lọc tự bản thân, của mỗi người. Khi cử hành lễ Vượt qua, người Do Thái có thói quen đổ bỏ bánh lên men mà họ vẫn có. Thay vào đó, là bánh không men, vừa mới cất.

Thói quen đổ bỏ này, vì qua tiến trình lên men tạo nên bánh, men được coi là nhân tố gây lũng đoạn bột. Vì thế, thánh Phaolô khuyên ta nên mừng lễ Vượt Qua, “đừng với men cũ, là men gian tà, ác độc; nhưng, với Bánh không men của lòng tin tuyền, và chân thật.” (1Cr 5: 6)

Về lại bài đọc 1, từ sách Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô nhấn mạnh đến tầm vóc quan trọng của đồ đệ Chúa. Quan trọng ở chỗ, ta không chỉ rút kinh nghiệm từng trải và vui hưởng niềm vui Đức Chúa là Thầy Chí Thánh nay đã Phục Sinh, mà thôi. Nhưng còn phải sẻ san kinh nghiệm và niềm vui ấy cho nhiều người càng tốt. Đó là điều ta nên làm. Nên làm, vì nếu chỉ liên hoan Phục sinh, thì mới có nửa phần. Mà, với người Đạo Chúa, Phục Sinh là đại lễ diễn ra hằng ngày. Là, ngày vui Chúa Sống lại, ta san sẻ với hết mọi người. Vào mọi ngày.

Lời thánh Phêrô “còn chúng tôi đây xin làm chứng”, là làm chứng về những việc Chúa đã làm. Về, việc Chúa bị bắt, hãm hại và giết đi. Về, “Thiên Chúa đã làm cho Người trổi dậy” và chúng ta, là “những kẻ được cùng ăn cùng uống với Người” (Cv 10: 40-41), vẫn là điều ta vẫn làm mỗi khi tham dự Tiệc Thánh Thể. Dự Tiệc Thánh, ta vẫn ăn và vẫn uống Thân Mình Đức Chúa Phục Sinh, quang vinh.

Vậy thì, thông điệp ta có được từ lễ Chúa Phục Sinh, là thế nào? Ta có đáp ứng đòi hỏi làm con dân Đức Chúa, hay chỉ ngồi đó tham dự thánh lễ mỗi Chủ Nhật, như người dưng? Bởi, thông điệp của Chúa là thông điệp gửi mỗi người chúng ta. Gửi, để ta ra đi mà rao báo Tin Mừng Ngài đã Phục Sinh. Rao và báo, cho cho con dân Ngài biết Thiên Chúa đã chọn Đức Giêsu đến với ta, không phải để lên án kẻ sống với người chết. Nhưng, để mọi người tin vào Ngài, sẽ được tha thứ mọi lỗi lầm, ngang qua Ngài.

Trong hân hoan đón nhận lệnh truyền của Chúa, ta cứ vui lên ma ca hát. Hát rằng:

“Người đi trong kinh hãi, trong cô đơn

Nhưng đi tới, nhưng đi vươn

Đi ra ngoài, đi ra ngoài màn đêm…”(Phạm Duy – Dạ Hành)

Ra đi, mang lệnh truyền của Chúa, sẽ không ra đi trong kinh hãi. Sợ sệt. Nhưng, vươn lên mà tiến bước. Tiến ra ngoài màn đêm. Nơi, còn nhiều người biết Chúa sống lại, từ cõi chết. Rất hãi sợ.

______Lm Phan Đỗ Thục Linh

Mai Tá diễn dịch.


Saturday, 28 March 2009

“Mình hãy trách đời nhau, nhiều hư hỏng”

Rồi giận hờn, cho kỷ niệm đầu tay
Thu miên man, không thấy lá vàng bay
Anh phải nói: buồn chúng ta màu trắng.

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mc 14: 1/ 15:7

Nhà thơ, xưa lưu dấu kỷ niệm, nhiều hư hỏng. Kỷ niệm đầu tay hay đầu đời, có lá vàng bay. Có nỗi buồn mầu trắng. Rất miên man. Giận hờn. Nhà Đạo, nay không mang sắc mầu kỷ niệm, một giận hờn. Buồn nhớ. Nhớ Vượt Qua. Nhớ nỗi chết của Chúa. Ngày sống lại.

Trình thuật hôm nay, thánh sử ghi về nhiệm tích “Vượt Qua”, Chúa từng trải. Ngài từng trải qua nhiều khổ đau. Có nỗi chết. Sống lại. Có thăng thiên về trời. Ngài gửi Thần Khí đến muôn dân. “Vượt qua”, “Cứu độ” Chúa thực hiện, nay đã rõ. Ở trên cao. Chốn vắng. Có thập giá, khổ đau. Rất sầu buồn.

Ngày buồn, Chúa ra đi. Đi, là về với Giêrusalem thành thánh. Đi, để khởi đầu một kết đoạn cuộc đời Ngài, ở trần thế. Kết đoạn, trong quang vinh. Khải hoàn. Hiển hách. Ở nơi đó, dân gian chốn thành thánh ra nghênh đón. Ở nơi đó, có niềm hân hoan, khởi sắc. Có, lời chúc tụng rền vang “Hosanna, Con Vua Đavít!” ầm ầm. Khắp chốn. Ở đó, lời tuyên dương “Đấng nhân danh Chúa mà đến”, vang dội mãi hôm nay, nơi Tiệc Thánh. Tại đây. Bây giờ.

Nhưng phút chốc, cục diện khởi sắc bỗng biến thành cảnh tượng u buồn. Sầu khổ. Có nỗi chết. Tại sao thế? Suy cho cùng, không gì bằng: ta về với bài đọc Lễ Lá, có thư đậm nét, thánh Phaolô ghi: “Anh em hãy có nơi mình, tâm tình ta vẫn có với Đức Ki-tô” (Ph 2: 5) Bởi, “Đức Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, thế mà Ngài vẫn trút bỏ mọi vinh quang, để chấp nhận phận nô lệ” và, “Ngài mặc lấy thân phận nô lệ, hạ mình chịu chết; và là cái chết trên thập tự.” (Ph 2: 6-7).

Ý tưởng này, thấy rõ nơi bài đọc 1, sách Isaya. Sách thánh, có đoạn ghi: “Người môn đệ kiệt sức”, không cưỡng nổi sức mạnh của địch quân. “Tôi đưa lưng cho người đánh đòn, giơ má cho người giật râu”. Ở đây nữa, tiên tri Isaya bàn về thái độ “không sử dụng bạo lực để đối kháng bạo lực. Bạo lực đây, không là thái độ đơn thuần, thụ động. Bạo lực đây, gặp phải trạng thái bất bạo động. Tức, một động thái được Mahatma Gandhi, Martin Luther King… rất đề cao.

Tuy đề cao, nhưng bất bạo động của Đức Kitô, ở đây, không chỉ là không sử dụng bạo động. Bất bạo động, mà là hành xử Chúa muốn tỏ bày, qua yêu thương. Có yêu thương, Ngài mới chấp nhận nạp mình cho đám người chuyên sử dụng bạo lực. Yêu thương, là cung cách Chúa bày tỏ cho mọi ngưòi. Yêu thương, là đỉnh cao tâm tình Ngài gửi đến, với chúng ta. Gửi đến, để ta cứ làm thế mà làm để theo chân Chúa.

Theo chân Chúa, là sẵn sàng “rỡ bỏ” chính mình. Là, đặt mình trong tâm tình yêu thương, cùng với Ngài. Theo chân Ngài, là giùm giúp mọi người. Vô điều kiện. Theo chân Ngài, là phục vụ bất cứ ai, trong tinh thần tương thân/tương ái. Không ngừng nghỉ.

Bài thương khó thánh Mác-cô ghi lại hôm nay nhấn mạnh một số điểm, để ta suy nghĩ:

*Ngày giờ sau hết:

1. Kinh sư/thượng tế dùng mưu ma chước quỷ nhằm trừ khử Chúa. Không thương tiếc.

2. Người nữ phụ đến đổ dầu thơm lên người Chúa, ý nói buổi liệm táng Ngài, vào rất sớm.

3. Giu-đa nộp Chúa cho thượng tế, đổi lấy tiền, là gợi ý hỏi rằng ta có làm giống thế? vì tiền?

*”Một trong các ngươi sẽ nộp Ta cho họ”

4. Dự phần Vượt Qua với môn đệ, Chúa tỏ bày sự bội phản của đồ đệ, nào ai đã nhận thức? Dự tiệc Thánh, ta thấy chăng quan hệ tương tác với người đồng bàn? đồng Đạo?

5. ”Này là Mình Ta. Này là Máu Ta” Chúa thiết lập Tiệc Thánh Thể, để tạ ơn. Nên nhớ, chính vì ta Chúa mới chịu khổ nạn, chấp nhận nỗi chết. Nhưng đã sống lại. Là, thành viên cộng đoàn dân con Chúa, ta có nhận chính ta là thành phần thân mình Ngài, không?

6. Phêrô chối Chúa. Về phần ta, đã bao lần, ta cũng hành xử như thế, với cộng đoàn?

*Trước mặt quan án

7. Tại vườn Dầu, Chúa vượt mọi hãi sợ. Đã nguyện cầu. Ngài hoàn toàn tuân ý Cha. Trong khi đó, các đồ đệ đều bỏ đi. Bỏ, là vì chẳng ai đoán được Ngài sẽ bị như thế. Nên, chẳng biết phải làm gì?

8. Chúa bị bắt. Giuđa bội phản. Phêrô rút gươm, ngăn cản dân quân đến bắt. Mọi người đều bỏ chạy. Để Chúa một mình. Tình thương đích thực đành bị bóp méo. Chẳng ai hiểu được đường lối bất bạo động, Chúa vẫn đi. Trường hợp mình, ta có bỏ chạy, khi đụng chuyện?

9. Trước mặt quan toà, Lời Chúa bị bẻ quặt. Chúa vẫn lặng thinh. Lặng và thinh, vì dân tình chỉ muốn lật ngược sự công minh, chính trực. Chúa tỏ bày Thiên tính Đấng Mêsia. Dân con mình tự bịt mắt. Làm mặt ngơ. Rất mù quáng. Còn ta? Ta nhìn Ngài với cặp mắt nào?

10. Vốn bộc trực, Phêrô đã một mực chối bỏ Chúa. Bỏ, những ba lần. Còn ta, chối bỏ bao lần?

*Quan trấn trưởng La Mã

11. Đứng trước Philatô, chỉ quan quyền mới lật ngược được tình thế. Đức Giêsu vẫn im lặng. Là Vua và là Chúa, Đức Giêsu vượt trên quyền tổng trấn, ở trần gian. Philatô không hiểu điều này, cứ tưởng rằng Chúa thuộc dưới trướng mình. Còn ta, lâu nay ta có thái độ nào?

12. Đám đông dân chúng xin tha Barabbas, thay vì Chúa. Còn Philatô, nắm thời cơ chuyên chuyển đổi sự việc. Nhất quyết biến Chúa thành tội phạm. Trong cuộc đời, có bao giờ ta từng xử sự giống như thế? vì danh/vì lợi?

*Con đường của thập giá

13. Chúa tuyên xưng Ngài là Vua. Điều này khiến dân quân nhà trại cười ồ. Chụp mũ. Lại mũ gai. Cắm gài lên da thịt. Ngài vẫn lặng thinh. Không cất lên lời. Vua các vua, nay tự “rỡ bỏ” chính Mình. Vì loài người. Còn ta?

14. Tiếp tục chặng đàng khổ ải. Chúng dân cười nhạo. Phỉ nhổ. Đường thống khổ, Ngài đi tiếp. Phần ta, phải chăng ta đã dự phần vào bi kịch hành hạ Đức Chúa? Ta đà thấy vinh quang Chúa hiển hiện qua khổ ải? Ta đáp trả ra sao? Trong đời ta?

*Bĩ cực và hiển vinh

15. Tối tăm phủ khắp chốn trời. Chúa tiến đến phần sâu lắng của khổ hình. Ngài hít hơi cuối cùng, rồi tắt thở. Hơi Ngài hít, chính là Thần Khí Chúa Cha. Là Ngài. Chết, giai đoạn cuối đã hoàn tất. Ngài hoàn thành thánh ý Cha. Màn Đền Thờ nay rách nát. Chúa biến đổi, qua hiện thực Phục sinh, nơi Mình Ngài. Tức, Hội Thánh. Lính gác, nay nhận ra Sư Thật: “Người này là Con Thiên Chúa.” Đây, một nhắc nhở dân con mọi người hãy mở lòng đón nhận Thần Khí Cha. Như dân quân canh gác đã nhận ra.

16. Giuse A-ri-ma-thi-a, xưa lên án Chúa, nay biến thành người đợi chờ Chúa đến trong vinh quang. Ngời sáng. Với đồ đệ, đây là kết cục mọi sự việc. Rất đau buồn. Sầu thảm.

Thương khó, do thánh Mác-cô ghi lại, đem đến cho ta nhiều điều để suy tư. Nguyện cầu. Nguyện và cầu, không chỉ mỗi hôm nay. Nhưng, suốt tuần. Tuần rất thánh, có những ngày sau hết của đời Chúa ở trần gian. Thánh Y Nhã khi xưa đã đề nghị một niệm suy, cho các khoảnh khắc cuộc đời ta vẫn sống. Thánh nhân đề nghị ta nên thêm vài suy tư, dù cổ lỗ:

“Tôi cố đặt mình vào lời lẽ được cất lên. Tôi tìm cách hiểu cho thấu, điều Ngài diễn tả bằng diện mạo. Và nơi tôi, đang dâng cao xuất hiện một nhận thức, vừa đủ sức. Có làm thế, tôi mới đi sâu vào mầu nhiệm để chiêm ngắm. Và, càng chú ý đặc biệt đến tính thánh thiêng, ẩn mình thầm kín, ta càng thấy Chúa tỏ mình như người thường, rất bất lực. Tôi hiểu rằng, Chúa yêu thương ta biết chừng nào, chính vì thế Ngài vui lòng chấp nhận khổ đau khi ta phạm lỗi. Khi ta khước từ Ngài, bằng nhiều cách.”

Dù cách nào đi nữa, trình thuật cuộc thương khó Chúa, diễn tả nỗi khổ Chúa bị người đời từ khước/chối bỏ. Chấp nhận thống khổ, Ngài quyết lãnh ý Chúa Cha. Làm thế, Ngài thực hiện công cuộc cứu độ, do Cha trao. Làm thế, Ngài hoàn tất hành trình trải dài nhiều khổ đau. Có nỗi chết. Nhưng Ngài sống lại. Để người người được vinh hiển.

Trong ý hướng lĩnh nhận vinh hiển Chúa ban, ta hân hoan cất cao lời hát, chúc tụng:

“Chiều thu ấy ánh nắng thu rơi lòng người

Hồn chơi vơi gió cuốn mây trôi về nguồn

Lòng bâng khuâng nghe lá rơi

Tình lâng lâng lâng theo sóng môi

Cầm tay nhau trao câu tiễn đưa

Ðừng sầu gió mưa.” (Nguyễn Hữu Thiết – Anh đi chiều Thu ấy)

“Cầm tay nhau ra đi, đừng sầu gió mưa”. “Đừng trách đời nhiều hư hỏng”. Nhưng cứ vững lòng, tin Chúa sống lại. Ngay cả vào mùa Chay kiêng. Nguyện cầu. Sám hối.

______Lm Phan Đỗ Thục Linh

Mai Tá diễn dịch.

Saturday, 21 March 2009

“Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt”

Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư
Tay quờ quạng, cầm tay vài tiếng hát
Lúc xòa ra chẳng có một âm thừa

(Dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Ga 12: 20-33

Ưu tư – chót buồn trong mắt, không chỉ là nỗi buồn của thế kỷ. Tay cầm – quờ quạng, có thể là tâm trạng của nhà Đạo, vào mùa chay. Mùa chay hôm nay, có ưu tư thoáng buồn, như tâm trạng của Đức Chúa, nơi trình thuật.

Trình thuật thánh Gio-an hôm nay, ghi lại tình tự Chúa tỏ bày cho dân con của Ngài, để “tôn vinh Cha”. Điều mà Chúa trả lời cho người đến tìm Ngài, là: tìm Ngài, không có nghĩa chỉ nên tìm ảnh-hình bên ngoài, để nhớ vóc dáng. Như ông Zakêu, lúc đầu làm. Nhưng, “tìm gặp” Ngài, là dấn bước trọn vẹn vào với suy tư. Vào, để hiểu rõ tại sao Ngài chấp nhận khổ đau. Và, chết đi. Rồi, sống lại.

Tựa hạt lúa miến, Chúa phải ngang qua tất cả mọi sự. Qua cuộc đời, ngõ hầu đem sự sống đến với Ngài. Với mọi người. Đây là tiến trình “tự bóc trần”, mà người Hy Lạp gọi đó là kenosis, tức: biến đổi. Biến và đổi, như hạt lúa miến. Nhìn bề ngoài, nó như bị hủy hoại. Nhưng nhờ bị huỷ, nó mới to lớn. Để rồi, sẽ làm giàu cho người khác. Nếu ta không coi và cứ chấp nhận điều đó, như cốt lõi của cuộc đời Đức Chúa, thì rõ ràng là ta chẳng thể tìm gặp và thấy được Ngài, cho đúng nghĩa.

Và, Chúa còn đi xa hơn, khi Ngài nói: chúng ta phải suy tư về mình, như: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn, ai coi thường mạng sống mình ở đời này, sẽ giữ được sự sống, chốn miên trường.” (Ga 12: 25). Lời như thế, phần đông chúng ta thấy khó mà chấp nhận. Khó là bởi, ai cũng muốn chiếm hữu nhiều tiền, nhiều của. Muốn an toàn. Yên ổn. Bao đảm có được tương lai ngời sáng. Trong khi đó, Chúa lại bảo: chỉ khi nào chấp nhận bỏ hết mọi sự, và giữ mỗi tình yêu thương phục vụ người khác, thì khi đó, ta mới hoàn thành phần sâu thẳm, của chính ta.

Phục vụ người khác, là đến với Chúa. Đến, để ra đi theo cung cách Ngài dạy:“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy. Và, Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng ở đó.” (Ga 12: 26) Dấn bước theo cung cách Chúa hành xử, là đi với Chúa. Và, có Mẹ cùng đi . Mẹ và ta, cùng tiến bước lên đồi ngọn Calvariô. Tiến và bước, đến bất cứ nơi đâu. Đi bất cứ chỗ nào. Đi và đến, chấp nhận mọi điều/mọi thứ xảy ra, với ta.

Vấn đề thêm nữa, là: ta đã sẵn sàng ở vào tình huống “đi và đến” ấy chưa? Hay vẫn cứ lo sợ mọi sự xấu/ác thần, xảy đến với ta? Đi và đến, có là đòi hỏi lớn, từ Đức Chúa? Với Chúa, chuyện này cũng dễ thôi. Nhưng, với ta? Dù sao, cũng nên nhớ đến thư thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Do Thái, có nói rõ: “Đức Giêsu giống hệt như ta trong mọi sự, trừ tội lỗi.”

Vậy nên, đừng nghi hoặc. Bởi, vào khi Chúa khuyên nhủ ta làm điều gì, vì Chúa cũng mang tính người như ta, nên Ngài cũng sầu buồn, lo ngại. Vì lo, mới thốt thành lời: “Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này?” (Ga 12: 27) Nhưng, điều Chúa muốn bày tỏ là lời cầu Ngài đã thực hiện sau Tiệc Giã Từ: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho đi chén này qua khỏi Con!” (Mt 26: 39)

Bài đọc 2, ta thấy thánh Phaolô dùng lời lẽ rất xúc động, khi thánh nhân có thư cho giáo đoàn Do Thái: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức giêsu đã lớn tiếng kêu van cùng nước mắt mà dâng lên lời nguyện cầu nài xin Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết.” (Dt 5: 7)

Mọi sự xảy đến, đều dễ xảy ra với Chúa hơn với ta. Với Chúa, chuyện chỉ xảy đến sau chuỗi ngày dài nguyện cầu, ở Vườn Dầu. Xảy vào lúc, Ngài sầu buồn đổ mồ hôi, cùng rướm máu. Hãi hùng. Hãi đến độ Ngài đã lên tiếng: “Song, không phải như ý Con, mà như ý Cha.” (Mt 26: 39) Và, thánh Phaolô, còn nói rõ hơn: “Dù là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.” Và từ đó, “Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ cho những ai tùng phục Ngài.” (Dt 5: 9)

Chính vào lúc Chúa hoàn toàn tuân phục Cha, thì vinh quang của Cha đã khởi sắc, ngang qua Ngài. Rất chói lọi. Và, Ngài kêu lên: “Đã hoàn tất.” Với thánh Gio-an, câu này có nghĩa: khoảnh khắc có sự chết là khoảnh khắc vinh quang, về với Cha. Hạt giống có chết, mới đâm hoa. Kết trái. Đậu quả.

“Phần Tôi, khi được giương cao khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi.” (Ga 12: 32) , giương cao ở đây, ý nói: việc Đức Chúa được đưa lên cao, trên khổ giá. Đồng thời, cũng có nghĩa: Ngài được nâng nhấc về với vinh quang của Cha. Bởi thế nên, nếu ta trọn vẹn dâng cao mình cho Đức Chúa theo cung cách tương tự, thì vinh quang Chúa cũng sẽ chờ đợi, đến với ta.

Và như thế, hôm nay ta có muốn tìm gặp Chúa, cũng không nên theo cung cách hời hợt bề ngoài. Nhưng, hãy học đòi tìm cách thức tư riêng mà nguyện cầu. Cầu, cho ân sủng Người được thấm nhập tận phần sâu thẳm, ở trong ta. Cầu và mong, những gì ta gặp thấy, sẽ trở nên thị kiến cuộc đời. Thị kiến giúp ta sống. Nhờ Chúa nâng cao, để mọi sự trôi qua đi, là vì tình thương yêu Ngài dành hết cho mọi người. Để, gọi mời ta cùng với Ngài đi chung một lối. Đi cùng mọi người.

Ta cũng hãy nguyện cầu, để có được lòng quả cảm và tín thác. Tín thác như Ngài đối xử với Cha. Tức, cần khám phá ra nhiều thứ. Khám phá, để rồi cuộc sống, niềm hạnh phúc và sự tuân phục giúp ta đi vào hành trình. Ở nơi đó, ta sẽ gặp thấy qui cách khiến mọi việc trôi chảy. Để Chúa hoạt động, nơi ta. Và cho ta.

Trong quyết tâm đó, ta cùng mọi người cất lên tiếng hát rất hân hoan. Khẳng định:

“Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng

mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm

Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời

Ôm vết thương rỉ máu, ta cười dưới ánh mặt trời…

Ôm vết thương rỉ máu, ta cười dưới ánh mặt trời…

(Nguyễn Đức Quang – Việt nam Quê Hương ngạo Nghễ)

Ngạo nghễ, chẳng vì ta thuộc giống dân đi trên lửa hồng. Nhưng, có Chúa cùng đi. Cùng nhìn về nơi cao xa, có Cha Ngài. Đi như thế. Nhìn như vậy, chắc chắn sẽ tới nơi. Tới vùng trời “chót buồn trong khoé mắt”. Nhưng, “vẫn cười dưới ánh mặt trời”. Ánh vinh quang của Đức Chúa.

____________Lm Phan Đỗ Thục Linh

Mai Tá diễn dịch