Sunday, 15 November 2009

“Ta lớn khôn rồi, vẫn trẻ thơ “


Hồn nhiên nuối mộng, thuở nào xưa
Lâu đài ta vẫn, xây trên cát
Ôm trái tim người, đứng ngẩn ngơ!

(thơ Vương Đức Lệ)

Ga 18: 33-37

Mộng thuở xưa, là mộng vàng tuổi thơ, rất hồn nhiên. Hồn tự nhiên, nhưng vẫn là lâu đài xây trên cát. Mộng hôm nay, phải là chân lý xác thực. Xây dựng, ở trong tim. Xây trong tim, vì tim là đền đài vững chắc Chúa dựng xây cho loài người. Hệt Đức Vua.


Trình thuật hôm nay, thánh Gioan nói về cuộc đời nhà Đạo, không đặt trong mộng, dù lớn nhỏ. Nhưng, đặt vào niềm tin vững chắc, của dân Chúa. Vững và chắc, vì dân con Chúa nay đã biết hợp lòng cùng vị chủ tế vinh danh Đức Vua, như kinh Tiền Tụng đà ghi rõ: “Là Vua, Ngài tỏ bày quyền uy trên mọi thọ tạo để dâng lên Cha, Vương quốc trải rộng toàn cầu, vĩnh cửu. Đức Giêsu Kitô là Vua của chúng con, Đấng dẫn đưa mọi dân tộc đến với Cha.”

Bài đọc 2, sách Khải Huyền cũng nói Ngài là “AnPha và Ômêga, Đấng Hiện Có, Đã Có và Đang Đến”. Ngài, là Khởi Đầu và Cùng Tột của cuộc đời chúng ta. Và mọi loài.


Tin Mừng nay ghi lại cuộc đối đầu giữa Philatô, tổng trấn La Mã và Đức Giêsu. Cuộc đọ sức giữa một người tự cho mình có quyền uy dũng mãnh như lãnh tụ một chế độ thực dân hà khắc, và Đức Giêsu, Đấng rày đây mai đó giảng rao Nước Chúa. Không tham vọng làm vua, quan, lãnh chúa.


Philatô hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do thái không?” (Ga 18: 33) Nói xong, ông cảm thấy bứt rứt khi Chúa hỏi ngược lại xem câu của ông có là câu hỏi chân phương, lương thiện. Hoặc, chỉ cốt để xác minh lời đồn đoán hoặc kết án, từ đối phương. Philatô có hỏi đấy, nhưng vẫn ngượng ngùng khi thấy Chúa đối đáp tay đôi với ông, như người cân tài cân sức. Không sợ hãi. Cán cân quyền lực nay chừng như đã và đang chuyển đổi. Philatô không muốn thế. Ông cũng chẳng lấy làm thích thú gì, khi biết rằng sức mạnh quyền uy đích thực không tuỳ vào cương vị/chức tước, nhưng vào phần nội tâm, bên trong con người.


Chúa Giêsu trả lời, không để vùi dập một ai, như Philatô đã từng làm. Sức mạnh và quyền uy của Chúa không phải để trấn át bất cứ người nào, nhưng là để nâng đỡ/hỗ trợ. Chỉ những người yếu kém mới tìm cách lấn lướt, để khuynh loát người khác. Đó là điều mà các bậc có quyền có thế, cũng nên chú ý, như: cha mẹ, thầy cô, chủ nhân, linh mục, quan chức chính quyền, thủ trưởng…


Dù Chúa không đáp trả bằng câu nói “Tôi chính là vua”, nhưng Ngài minh định rất rõ: “Nước Tôi, không thuộc về thế gian này.” Nước của Ngài bắt đầu thế gian này, nhưng không THUỘC về thế gian. Điều đó, có nghĩa: nguồn gốc của hứng khởi và quyền lực là chính Chúa. Đặc biệt hơn, là ở Tình Yêu của Ngài.


Đức Giêsu là Vua, nhưng ảnh hình của Vua Kitô hoàn toàn khắc hẳn ảnh hình ta vẫn có, về vua quan. Ở đời. Khác ảnh hình, mà dân con người người vẫn có về Đấng Mêsia-Vua mà họ trông ngóng. Ngài không có quân đội. Cũng chẳng màng tìm ảnh hưởng chính trị. Trước mặt Philatô lúc ấy, Ngài không giống một ai khác, ngoài Đức Vua Kitô. Ít lâu sau, Philatô bình tĩnh trở lại, đã nghĩ về cơ nghiệp của mình, mới ra lệnh hành hình Vua vũ trụ, là Vua các vua. Là, Chúa các chúa. Từ lúc đó, lính tráng của Philatô mới kết triều thiên gai lên đầu Ngài, mà chế riễu: “Kính lạy Vua Do thái.”


Thế rồi, khi dẫn Chúa ra trước mặt chúng dân, Philatô nói: ”Này là Người!” Lời này, có thể diễn dịch cách thông thoáng, như: “Hãy xem kìa! Kẻ đứng trước mặt các ngươi đây, dù các ngươi có tin hay không, vẫn chỉ là con người.” Với lời lẽ thảm thương ấy, “Vua quyền” của Đức Giêsu Kitô đã bị chối bỏ. Để từ đó, họ bắt đầu coi Ngài như kẻ tội phạm. Và từ đó, dân con Ngài cũng đã chối từ Đức Vua của vũ trụ. Của con người. Điều này không còn gì để ngỡ ngàng. Bởi, đây không là ý tưởng về Đức Vua-Mêsia, Đấng cứu độ được hứa ban cho dân Do thái.


Ở đây, cần nhớ rằng: thập giá nhục nhã Chúa cam chịu, không phải là dấu chỉ của một thất bại. Ta cần hiểu rằng: thập giá ấy, là chính ngai vàng của Đức Vua Vũ trụ. Với các vị đứng gần bên thập tự, giây phút xem ra như một thất bại nhãn tiền, nhưng sự thực, lại là giây phút Chúa tỏ bày một chiến thắng quang vinh. Chiến thắng của sự sống. Của Sự thật. Và, của Tình yêu. Chiến thắng ở bên trên mọi tủi hổ. Trên sự suy sụp. Trên chính cả sự chết nữa. Đức Giêsu chiến thắng sự chết là bởi Ngài chấp nhận nó. Ngang qua nó. Ngài lấy lại sự sống. Ngài sẵn sàng để sự sống qua đi.


Đức Kitô Vua Vũ Trụ chết trên thập tự, đã trở thành chiến thắng của sự thật. Của công lý, lòng xót thương. Và trên tất cả là chiến thắng của Tình yêu. Thứ tình, mà chẳng một ai có thể cho đi chính sự sống của mình, cho bạn bè. Và đây, chính là quyền uy sức mạnh của Đức Vua Vũ trụ. Sức mạnh mà không một thứ gì có thể sánh tày, rày lướt thắng.


Vua Vũ trụ, không thể thực sự là Vua của chúng ta, nếu như ta không nhận làm thần dân của Ngài. Ngài sẽ là Vua của ta, nếu ta không chịu nghe lời Ngài. Phục vụ ngài. Theo chân Ngài. Ngài không là Vua của chúng ta nếu như ta không tự nhận dạng với cứu cánh/mục tiêu của triều đại Ngài trị vì. Ta đến với triều đại của Ngài không vì ta được thanh tẩy hoặc vì ta mang danh tín hữu, người Công giáo. Cũng chẳng vì ta tham dự vào các sinh hoạt phụng vụ, và lễ nghĩa. Ta chỉ dám nói mình thuộc triều đại của Ngài, khi mà:


-ta cố gắng bước theo Ngài

-cố gắng sống cuộc đời tràn đầy tinh thần của Phúc Âm

-Tinh thần của Phúc Âm xâm nhập mọi khía cạnh của cuộc sống.


Ta chỉ thuộc triều đại của Ngài, khi –giống như Ngài- tức là ta đạt đến cấp độ tự do, qua đó ta có thể để mọi thứ ra đi, cả sự sống trong chiến đấu để biến thế giới của ta thành một thế giới của sự thật. Của công lý. Của Tình yêu. Đó là cuộc chiến đấu giúp cho lời cầu của mọi người thành hiện thực. Lời cầu ta tuyên xưng ít nhất là mỗi tuần: “Xin cho Nước Cha trị đến”.


Và, ta không thể theo chân Chúa , Đức Vua của ta được, nếu như ta không am hiểu Ngài nhiều hơn. Điều này đòi hỏi ta không chỉ gật đầu hứa hẹn tìm đọc Tin Mừng, Lời của Chúa. Bởi, đơn giản là nếu không biết rõ Tin Mừng, ta sẽ không thể biết Chúa, như thánh Giêrônimô từng minh định. Ta cần nguyện cầu có sự khôn ngoan ấy hầu am hiểu tường tận tinh thần của Đức Kitô Vua. Am hiểu cả bản chất quyền uy và cứu cánh, cũng như đối tượng của thế giới, ta đang sống. Và rồi, ta mới tự đặt mình vào với thế giới ấy.


Cuối cùng ra, ta quyết tâm tin rằng Đức Kitô không chỉ là Vua của người tín hữu nhưng còn là Chúa của thế giới này. Ngài là Chúa theo dạng thức, rất đặc biệt. Bổn phận của ta, là phải giúp mọi người hiểu biết căn tính của Vua Vũ trụ, Ngài chính là:


*Vị Vua, từng yêu ta không điều kiện

*vị Vua, từng muốn hoà giải hoà hợp với kẻ tội phạm

*Vị Vua, vốn chỉ muốn giúp đỡ, chữa lành kẻ ốm yếu, tật bệnh.

*Vị Vua, rất khiêm hạ, chẳng bao giờ kiêu hãnh lẫn tự hào

*Vị Vua chỉ muốn san sẻ cuộc sống với ta, bây giờ và mãi mãi.


Để am hiểu Lời Ngài, trước nhất ta phải tự giúp mình am hiểu cương vị Vua nơi Ngài, sau đó giúp mọi người hiểu và biết đến Ngài. Nghịch thường thay, cách thức hay nhất để biết Đức Kitô Vua là ra đi giùm giúp mọi người biết đến Ngài. Để làm việc san sẻ nhận thức, sự am hiểu và lòng yêu thương Đức Kitô Vua với người khác, ta phải khám phá ra nhận thức, sự am hiểu và lòng yêu thương của chính mình.


Trong quyết tâm như thế, ta cứ thế hân hoan cất cao lời ca tiếng hát ta từng hát xưa nay:


“Kìa cỏ cây như say giấc mơ triền miên

Và lòng ta hôm nay quên hết ưu phiền

Giơ tay lên ca ngợi thanh niên

Hát, hát lên cho tấm lòng vững bền.” (Phạm Đình Chương – Bài Ca Tuổi Trẻ)

Cứ hát lên “Bài ca của tuổi trẻ”, là bởi dù “ta lớn khôn rồi, vẫn trẻ thơ”. Vẫn còn trẻ và cứ còn thơ, để “hồn nhiên, nuôi mộng, ôm trái tim người”. Trái tim biết yêu thương. Đùm bọc. Giùm giúp.


______Lm Phan Đỗ Thục Linh

MaiTá diễn dịch.

(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com

hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;

hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com

Saturday, 7 November 2009

Đấy là tất cả, người anh tiêu tán

Cùng trăng sao, bàng bạc xứ Say Mơ
Cùng tình em, tha thiết như văn thơ
Ràng rịt mãi, cho đến ngày tận thế.

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mc 13: 24-32

Ràng rịt - tha thiết, mãi cho đến ngày tận thế. Thiết tha - rịt ràng, tiêu tán cả người anh. Tiêu tán đến tận thế, có là tâm tình nhà thơ? Thế còn, tâm tình nhà Đạo có là tình tự Lời Chúa ghi lâu nay?

Trình thuật Lời Chúa hôm nay, thánh Máccô ghi về ngày thế tận, tiếp theo sau đoạn văn nói thành thánh Giêrusalem bị phá huỷ. Tình tự âu sầu mà người Do Thái thời của Chúa, từng trải nghiệm. Trải nghiệm, còn sầu buồn hơn việc thành đô La Mã và đền thánh Phêrô bị hư hao. Với người Do Thái, Giêrusalem là chốn thánh Chúa ngự. Đền Giêrusalem dù bị huỷ hoại rất nhiều lần và dân con từng lưu lạc, rất nhiều năm. Nhưng, huỷ hoại lần này kéo dài hơn 2000 năm, không kém. Và đến nay, đền thờ Hồi giáo đang chiếm lĩnh nơi đó, không biết đến bao giờ mới ngưng.

Với cộng đoàn tiên khởi, sự kiện huỷ phá đền thờ để lại nhiều dấu vết suy tư, trầm lắng, rất thương đau. Và, thánh Phaolô nói “Đền thờ mới” Thân Mình Đức Kitô. Tức, ngụ ý rằng: hân mình Ngài tìm thấy ở dân con, chứ đâu phải lớp sỏi vụn, bên ngoài. Nên, dù Vaticăng và đền thánh Phêrô có bị huỷ đi nữa, cũng đâu ảnh hưởng gì đến bản chất thiết yếu của Hội thánh. Hội các thánh lớn dần, đầy sinh lực.

Trình thuật hôm nay, Chúa nói rõ về sự xuất hiện của Con Người. Con Người đến trong vinh quang. Ngài đến, để thiết lập một lần là mãi mãi cho Vương Quốc Chúa ngự trị. Triều đại Ngài, có kẻ đến để thần phục. Có người mải đến để chối bỏ và chọn lựa chốn tối tăm. Họ chối bỏ, để rồi chọn lựa tư thế chỉ làm người ngoài cuộc. Vẫn mãi mãi. Cứ miên trường.

Con Người nói ở đây, được hiểu là Đức Kitô, Con Một Chúa mà đồ đệ nhận biết, đã gần gũi. Con Người ấy, nay xuất hiện đầy quyền năng. Quang vinh. Và, trình thuật còn kể: “Con Người ngự đến trong mây trời, đầy quyền uy, sáng chói” đã là lời vang vọng từ sách Tiên tri Đanien. Nhưng ở đây, Con Người oai nghi uy quyền, hơn bao giờ hết.

Con Người xuất hiện, bằng cũng một ngôn từ như ở Cựu Ước. Nơi Giao Ước xưa, khi thánh sử diễn tả việc Chúa xuất hiện, lại có “thần thiêng sứ giả và tập họp dân con Ngài lại với nhau”. Tập họp, là để Ngài tỏ lộ cho thấy quyền uy vinh quang chói lọi, vẫn có nơi Con Người. Đây, là mặc khải diễn bày nhiều lần, ở Cựu Ước. Thế nên, khi lặp lại những lời của Cựu Ước, tín hữu Chúa nhận ra xác chứng về thiên tính của Đức Giê-su, nơi vai trò của Con Người.

Phân nửa bài Tin Mừng nay lặp lại ngôn ngữ và ý tưởng truyền thống có từ thời Cựu Ước. Mà lặp lại, không để người đọc hiểu theo nghĩa đen rất từng chữ. Cũng không như lời tiên tri về sự việc sắp xảy đến. Lặp lại, là để diễn bày nội dung rất sáng, đang diễn tiến. Ảnh hình có mặt trời mặt trăng muôn tinh tú, là lối diễn đạt phán quyết của Thiên Chúa đối với dân tộc Do Thái.

Người Do thái xưa, vẫn tin rằng mặt trời, mặt trăng và muôn tinh tú, đại diện cho thần linh/thượng đế luôn kiểm soát vũ trụ, với trăng sao. Người Do thái tin rằng khi Thiên Chúa ra tay hành động, thì không gian tinh tú sẽ vần vũ. Rối bời. Người thời xưa, chẳng thể nào hình dung ra hệ thống và cơ cấu trăng sao tinh tú, rất vũ trụ. Như hôm nay.

Điều mà trình thuật nay muốn nói, là: toàn thể tinh cầu vật thể ở vũ trụ mà người đời vẫn nghĩ là đang kiểm soát lịch sử, so với quyền uy của Đức Chúa, vẫn chỉ là hư vô. Và, một khi mặt trời mặt trăng muôn tinh tú, sẽ không còn chiếu sáng. Thì, trăng sao tinh cầu lớn nhỏ, sẽ rơi rụng.

Đàng rằng, thời thánh Máccô còn sống, niềm tin vào sức mạnh của trăng sao tinh tú đều rất mạnh. Ở Trung Hoa thời đó, các chiêm tinh gia được kính nể rất mực vì các vị đều có thể đoán trước đường đi nước bước của nhiều tinh tú, ngoài vũ trụ. Đoán được cả, cung cách tác động lên cuộc sống của người phàm, dưới thế trần. Nhờ có kỹ năng tinh tế như thế, các thừa sai Dòng Tên đã được trọng vọng. Kính nể. Cả từ trên. Hôm nay, nhiều đấng bậc ở đời vẫn còn giữ thói quen “bấm số”, “cúng sao”, đoán già đoán non cả về tình duyên/gia đạo, rất bạo miệng.

Dù rằng thế, chẳng có gì để ta có thể đoan quyết được rằng: có mối giây liên kết giữa việc thành thánh Giêrusalem bị phá huỷ, với việc Đức Chúa quang lâm, sẽ tái thế. Cả khi, tín hữu thời tiên khởi vẫn trông ngóng Chúa đến lại. Đến, vào thời họ còn sống. Điều này phản ánh nguyên do khiến thánh sử ghi chú bằng những lời lẽ như: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy đến.” (Mc 13:30)

Hiển nhiên là điều này vẫn ám ảnh truyền thống người Do thái, cứ quan niệm rằng kết cục của thành thánh Giêrusalem còn có nghĩa là kết đoạn của thế trần. Ám ảnh đến độ, các thế kỷ sau đó, ngay như thánh Âu-tinh lại cũng hiểu rằng đoàn quân man rợ đánh chiếm LaMã sẽ kết thúc nền văn minh Kitô, thấy rất rõ. Tuy thế, vào thời điểm trình thuật hôm nay được viết lên, chúng dân đã bắt đầu vấn nghi về lý đương nhiên chuyện Chúa đến trong lai thời.

Phần cuối trình thuật kể về việc Chúa dùng dụ ngôn cây vả, làm bài học dẫn dụ người nghe. Vả, là loại cây ai cũng biết, sống tràn lan trên núi Oliu, nơi Chúa giảng. Vả, chỉ đâm chồi nẩy lộc vào cuối xuân. Bởi thế nên, khi thấy vả nảy lộc ai cũng biết là mùa hè đang dần đến. Và khi, nghe Chúa tả ngày thế tận bằng từ ngữ như đại hoạ, đồ đệ Ngài đã ứng đáp bằng niềm tin. Hy vọng. Và, tiên liệu. Với họ, ngày thế tận như mùa hè, đều rất tốt. Tốt, không vì Chúa quên lịch sử. Nhưng, vì Ngài đưa mọi sự vào giai đoạn kết cuộc toàn thắng. Thắng tà thần. Thắng lòng dạ con người, luôn đổi thay.

Xem như thế, trời/đất, trăng/sao, tinh tú/giải ngân hà, và cả đến hành tinh bé nhỏ của ta nữa, rồi ra cũng sẽ đổi thay. Biến mất. Nhưng, Sự Thật, Tình Thương, và Công Lý sẽ không thay đổi. Vẫn lấn lướt. Vẫn hiện diện. Và ngời sáng, đến muôn đời.

Lâu nay, nhiều người muốn cảnh báo về ngày thế tận, nhưng “khi nào” thì ngày ấy xảy đến, nào ai biết. Cuối năm 1999, nhiều vị đoán là “ngày ấy đã gần kề”, nhất thứ là khi thấy xảy ra nhiều hiện tượng nhiễu nhương được họ coi như một việc trả đũa, từ Thiên Chúa? Ngôn từ trả đũa mang tính xúc phạm. Bởi, Chúa chẳng bao giờ trả đũa lẫn trừng phạt ai. Dù, người ấy có làm quấy. Ngài vẫn xót thương cả người vô tội, lẫn có tội. Tội, có bao giờ chạm được Chúa, mà chỉ quay về người vi phạm, thôi.

Chúa nói: không ai biết được ngày/giờ ấy, sẽ xảy đến. Thành thử, cũng chẳng nên lo lắng về chuyện ấy. Chỉ một cách duy nhất nên làm, là: sống mỗi ngày và mọi ngày trong tình thương yêu phục vụ. Cũng đã đủ. Ngày hôm nay sẽ định đoạt cho tương lai, mai thời.Thế nên, ta cũng nên tập trung vào chuyện ở đây. Bây giờ. Có thế, mới vào với Nước trời. Vào, để sớm muộn gì Ngài cũng sẽ mời ta đến. Đến với Ngài, như buổi họp mặt của bạn thân.

Quả thật, Ngài đã, đang và luôn luôn có mặt ở nơi đây. Tuy nhiên, vấn đề không phải là để Ngài đến với ta, mà là: ta sẽ đi vào với tương quan đậm sâu với Ngài. Với Ngài, ngang qua nỗi chết. Chết cho chính mình. Chết cho mọi sơ xuất. Tật xấu để về với cuộc sống, đã đổi thay. Như Ngài dạy.

Trong quyết tâm làm theo Lời Ngài dạy, ta cứ vui lên mà hát xướng. Hát rằng:

“Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi! Thân xác ra với đời

Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi! Tim óc về với tôi

Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi! Nơi khó khăn kiếp người

Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi! Nhận Chúa là nỗi vui.” (Phạm Duy – Chúa Hoà Bình)

Có Chúa Hoà Bình, ta chẳng ngại “người anh tiêu tán”. Và chẳng sợ, những là “bàng bạc xứ Say Mơ”. Nhưng thiết tha với người anh, người chị và đàn em thân yêu ở đất trời đầy nhung nhớ. Nhớ Chúa. Nhớ lời dạy về thời gian.

Lm Phan Đỗ Thục Linh

Mai Tá diễn dịch

(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com

hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;

hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com


Sunday, 1 November 2009

“Dẫu rong rêu, xóa mất dấu tên đường”

vui nhé em, chào những khung cửa khép
hạnh phúc chờ, từng tiếng gọi yêu thương."
dẫn từ thơ Cao nguyên)

Khung cửa khép, suy tư/nguyện cầu đâu cần những phô bày. Phô và bày, ở khung cửa khép như Kinh sư/Biệt phái nhà Đạo, thời buổi trước. Thời, có trình thuật thánh sử đà ghi sâu.

Trình thuật thánh Máccô hôm nay, ghi sâu về phong thái của người đời chỉ những muốn phô trương cùng bày biện. Phô bày diện mạo, danh xưng chức phận, cùng phong thái. Phô và bày, để tỏ ra ta đây lành thánh, có khắp nơi. Đó là thái độ Chúa nói về kinh sư nhà Đạo, ở Kinh thánh: "Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng. Thích được người ta chào hỏi nơi công cộng. Họ muốn chiếm ghế danh dự trong hội đường. Thích ngồi cỗ nhất, trong đám tiệc.”

Quả tình, Kinh sư Biệt phái, là những người am hiểu rộng rãi về luật lệ. Nên rất được kính trọng. Xúng xính trong bộ áo thụng, để chứng tỏ mình thuộc tầng lớp cao quý, rất riêng tây. Rất am hiểu nhiều bộ luật. Nên, mỗi khi thấy họ đi ngang, chúng dân đều đứng dậy, mà tỏ lòng cung kính. Rất quý trọng.

Nhiều lần, quần chúng xưng hô chúc tụng họ như các đáng thuộc “Bậc Thầy”, hoặc “Cha/Cố”. Khổ nỗi, quen với thói tục này, họ tưởng mình vẫn có quyền được như thế. Quyền được có lợi. Quyền để hành, dành riêng cho một mình mình. Và từ đó, họ có thêm thái độ tự tung tự tác. Phô trương. Ngạo mạn. Coi luật Chúa, như của riêng.

Ngày nay, nhiều viên chức cấp cao trong xã hội, cũng hành xử theo cùng một cung cách. Có vị ngang nhiên tự tạo cho mình tính “quý phái” giống giòng hào kiệt. Có đủ mọi quyền uy/vị thế để có thể lọt vào giai cấp rất chững chạc, ở trên cao. Trọng vọng. Để rồi từ đó, cứ tiếp tục làm mầu làm mè ở chính trường, lẫn nhà đạo. Nay, Chúa lên án thái độ đê hèn của Kinh sư, chuyên nuốt tài sản của các bà goá”,
và "làm bộ đọc kinh cầu nguyện thật lâu giờ ". Nói tóm, quyền uy/chức vụ thường kết nối chặt với tham ô/nhũng lạm. Mà, nhiều thủ lãnh tôn giáo vẫn cho là mình không thể là kẻ có tội.

Thời nay, đôi lúc có vị tự cho mình là “thủ lãnh tôn giáo” trong địa hạt rao truyền Lời Chúa trên truyền thông/truyền hình dám gom góp tiền bạc của chúng dân hiền lành. Khờ khạo. Từ đó, họ sống thoả thuê bằng mồ hôi nước mắt của bà con. Trong khi đó, hình ảnh của Mẹ Têrêxa Calcutta hiện lên chuyến viếng thăm trường học nọ ở Hồng Kông, đơn giản chỉ với chiếc áo dòng cũ kỹ trên người. Mẹ đi đôi dép da chẳng đáng giá. Và khi đến thăm Nữ Hoàng Nước Anh, Mẹ cũng chỉ ăn vận đơn giản. Hèn mọn. Như chính bản thân Mẹ.

Ở đời thường, ta cứ bận tâm với “thể hình bên ngoài”. Luôn ưu tư, đến việc người khác đánh giá thế nào, về mình. Luôn lo sợ người khác biết mình có khuyết điểm. Nên, không còn có thể giáp mặt người “đồng loại” cách thoải mái. Nói tóm, ta quá bận tâm về chính mình. Chẳng để ý đến một ai.

Tin Mừng nay nói về thái độ của Kinh sư/Biệt Phái, là nói về ta, là dân con nhà Đạo. Lâu nay ta suy nghĩ và hành xử, hệt như thế. Lâu nay, ta cũng ưu tư lo lắng về lớp mù sương dày đặc, cần lướt thắng. Nỗi ưu tư, giống như thái độ người Kinh sư/Biệt Phái vẫn tiềm tàng, trong ta. Làm thành quan ngại lớn. Và, đây cũng là căn nguyên mọi vấn đề. Với nhiều người.

Phần hai Tin Mừng, dẫn đến ảnh hình của truyện tích, rất khác biệt. Ở đó, nối kết giữa hai phần, nhờ cụm từ “bà goá”. Bà goá và trẻ mồ côi, là hai lớp người nghèo/khổ, thời của Chúa. Ở xã hội, không có hệ thống phúc lợi, lớp người này chẳng bao giờ có được giùm giúp. Mồ côi, vốn vô gia cư. Chẳng được gì. Lại bị xã hội ruồng bỏ. Và goá bụa, thường vì chồng chết sớm vì chiến tranh hoặc bệnh tật, nên tuy gọi là goá, các bà thường vẫn trẻ. Nhưng, với xã hội trong đó hôn nhân được đẩy đưa/mai mối, thì bà goá là người chẳng có cơ may làm lại cuộc đời. Nếu không con, lại đơn chiếc, thì nhiều phần là các bà goá sẽ bị dồn vào cảnh tình nghèo đó. Túng cực.

Ở trình thuật, sự tương phản thấy rõ giữa thái độ của bà goá nghèo hèn và Kinh sư/Biệt Phái, rất quyền cao chức trọng, đầy uy nghi, đã làm nền cho lời dạy của Chúa. Tính giản đơn/chân phương của bà goá qua quyên góp, phản nghịch lòng tham lam/ngạo mạn của một số lãnh tụ tôn giáo, và đây còn cho thấy trạng huống chênh lệch của xã hội Do Thái, thời của Chúa.

Nhìn vào cảnh tình hôm nay, ta thấy rõ: vẫn có chênh lệch giữa các giai tầng quyền chức trong xã hội, ngày hôm nay. Chênh lệch và khác biệt, còn nhận thấy trong thái độ vui chơi/ăn uống giữa giai cấp sống thoải mái, dư dật và nhòm người đói nghèo. Cùng cực. Có những cảnh, người ăn không hết, cứ vứt bỏ của dư thừa vào thùng rác. Trong khi đó, người nghèo đói cứ phải phấn đấu kiếm từng giọt nước với hột gạo, để sống sót. Tín thư Tin Mừng Chúa đưa ra, không phải chỉ cho người Do Thái thời của Chúa mà thôi. Mà, cho mỗi người. Và mọi người chúng ta, hôm nay.

Bà goá nghèo, đã hành động hoàn toàn tin tưởng vào sự an bài của Chúa, dám bỏ vào thùng tiền những gì bà hiện có. Bà chẳng quan ngại ngày mai đói khát. Còn mỗi hai đồng tiền kẽm có thể nuôi sống bản thân mình nhiều ngày, nhưng bà vẫn cho đi. Cho để phục vụ những người còn khổ hơn.

Bài đọc 1, diễn tả cùng một chuyện. Tương tự. Cũng nói về bà goá. Bà goá nghèo, có con trai. Và cả hai, đang đứng trước cảnh tình cùng cực, chuẩn bị chết. Nhưng, dù đói nghèo cùng cực, bà vẫn có tinh thần phục vụ. Phục vụ người đang có nhu cầu cấp bách. Phục vụ, được thử thách bằng đòi hỏi gắt gao của ngôn sứ. Đền đáp lại, là phần thưởng cao quý dành cho ba người. Những người con, dám hy sinh cho đi mọi sự. Để phục vụ. Cho đi, mẹ con bà goá và vị ngôn sứ được nhận lại, nhiều hơn trước. Đó là tín thư của Tin Mừng. Của Phục vụ. Và, cho đi.

Trình thuật nay diễn bày câu chuyện thoạt xem có dáng vẻ “không tưởng”. Nhưng thực tế, biết bao gương lành về phục vụ và cho đi, như chuyện thần thoại, vẫn diễn ra ở phố chợ. Điều, mà trình thuật muốn chứng minh, là: bao lâu ta nhận ra rằng chỉ khi nào ta biết nghe theo Lời của Chúa trong mọi việc, khi đó ta mới đạt cội nguồn của an bình. Hạnh phúc. Sướng vui trong miên trường.

An bình và hạnh phúc, không thấy nơi bạc tiền. Tài sản. Học vị hoặc chức nghiệp. Bởi những thứ ấy đều thoáng qua. Tạm bợ. Dễ biến dạng chẳng báo trước. Chỉ một điều có thể tồn tại mãi mãi, là: tình thương yêu đùm bọc. Giùm giúp lẫn nhau. Trong mọi tình huống, dẫu xấu xa. Tồi tệ.

Câu chuyện thánh Máccô diễn tả, còn là nhịp cầu nối kết cuộc sống đầy ý nghĩa của Đức Chúa với nỗi thống khổ sắp tiếp diễn. Hành động của bà goá hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, biểu trưng việc Chúa phó dâng trọn vẹn cuộc sống của Ngài cho Cha. Ngài phó dâng, như một bài dạy để ta nhận biết, mà noi theo.


Trình thuật hôm nay, là tổng luận lời Chúa dạy về tính chất người đồ đệ. Đồ đệ Chúa, phải là người tự coi mình như không có. Không vênh vang, tự mãn. Không tham vọng. Cũng chẳng đánh bóng tạo hình tượng cho người người đến chiêm ngắm. Như Biệt phái/kinh sư hay người giàu có, ở đền thờ. Bà goá hôm nay là ảnh hình lý tưởng của người chẳng là gì, nhưng lại có tất cả. Có được sự cao cả, Chúa hứa ban.

Còn lại, vấn đề: “có hay không có”, và “người người nghĩ thế nào về mình”, cũng chẳng quan trọng bằng: mình có là người tự do, trung thực và thật sự công chính, trước mặt Chúa? Có dám cho đi tất cả, để tin tưởng trọn vẹn vào Chúa, Đấng sẽ ban trở lại những gì mình cần đến? Có tin tưởng rằng: cứ cho đi, như bậc tiền nhiệm của ta từng làm. Rồi ra, ta sẽ được Chúa đoái hoài, tặng ban thêm?

Trong tin tưởng những việc chính đáng như thế, ta lại sẽ hát lên lời ca đầy phấn chấn, như:

Cho đi lại từ đầu chưa đi vội về sau
Xin đi từ thơ ấu đi vui và bên nhau
Trong tim thì sôi máu khóe mắt có trăng sao
Bông hoa cài trên áo, trên môi một nguyện cầu.”
Phạm Duy – Kỷ niệm)

Cho đi và cho mãi. Không chỉ từ đầu. Mà, cho mãi về sau. Cho từ thời thơ ấu. Cho cả thời về sau. Cứ cho. Sẽ có Chúa cùng cho. Và cùng ở với ta. Mãi muôn đời.


Lm Phan Đỗ thục Linh
Mai Tá diễn dịch

xem thêm các bài khác, xin mời vào
www.suyniemloingai.blogspot.com
hoặc:www.tranngocmuoihai.blogspot.com
hoặc:www.giadinhanphong.blogspot.com