Suy
Tư Tin Mừng trong tuần 34 Lễ Kitô Vua năm B 22/11/2015
Tin Mừng (Ga 18:
33b-37)
Khi ấy,
quan Philatô nói với Đức Giêsu rằng: "Ông
có phải là vua dân Do-thái không?" Đức Giê-su đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người
khác đã nói với ngài về tôi?" Ông Philatô trả lời:"Tôi là người Do-thái sao?Chính dân của ông
và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?" Đức Giêsu trả
lời:"Nước tôi không thuộc về thế
gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu
không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn
này." Ông Phi-la-tô liền hỏi:"Vậy
ông là vua sao?" Đức Giêsu đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua.Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm
mục đích này: làm chứng cho sự thật.Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng
tôi."
“Miễn tội,
em đừng bỏ phế Vua”
(Dẫn từ
thơ Hà Huyền Chi)
Đức Piô XI thiết lập lễ Kitô Vua, khởi đầu năm
thánh 1925. Đại lễ bắt nguồn gần nửa thế kỷ trước, hồi thập niên 1880, khi mà
nhiều Giám mục ở Châu Âu lo âu thấy rõ phong trào tục-hoá nhà Đạo đã nổi lên.
May thay, trào lưu phàm tục này đã không lập lại vào các thế kỷ về sau.
Ưu tư lo lắng của các giám mục thời bấy giờ, là: sao ta lại để cho quyền
hành trần thế ngày một lấn lướt, tạo thế “hơn hẳn”, chống trả thần quyền, đến
như thế? Đặc biệt hơn, các Giám mục ở Pháp và Ý đã ý thức được tầm quan trọng
cần thờ kính Đức Giêsu Kitô Vua-Cha của vũ trụ. Và, lòng sùng kính Đức Kitô-Vua
từ đó phát triển mạnh, mãi đến hôm nay.
Năm 1922, Đại Hội Thánh Thể ở Rôma, có 69 vị Hồng-y Giáo-chủ đã thỉnh
cầu Đức Giáo Hoàng hãy cho phép thiết lập đại lễ mừng kính Vua Cha Cao Cả, cho
mọi người. Suốt ba năm, đền Vatican tràn ngập những thỉnh nguyện thư, cùng đòi
hỏi Giáo hội phải làm việc gì để mừng kính Đức Kitô Vua. Vua trần gian. Vũ trụ.
Loài người. Và chung cuộc, thì lễ Đức Kitô Vua đã thành hình và tiếp tục đến
ngày hôm nay.
Với Tân Ước, dù Chúa nói đến Vương Quốc Nước Trời, dù Ngài có được tung
hô vạn tuế như Vị Vua Cao Cả, Đức Giêsu vẫn quả quyết: Vương quyền của Ngài
hoàn toàn khác biệt vương triều của vua chúa trần gian như César, Hêrôđê, hoặc
cả đến Đavít, và các Vua Do-thái nữa. Với tín hữu tiên khởi, người người thấm
nhuần, ghi tạc tình Vua Tình Yêu chẳng bao giờ thiếu.
Trước năm 324, có rất ít tác phẩm nghệ thuật
cũng như văn-bản sử-liệu trình bày Đức Giê-su như vị Vua Cha Cao Cả. Năm đó,
hoàng đế Constantine vừa tham gia cộng đoàn dự tòng, đã biến Đạo Chúa thành Đạo
uy phong lẫm liệt cho Đế quốc ông trị vì, để tỏ bày lòng yêu thương đức Vua,
như một người Cha.
Cũng từ đó, nghệ thuật trong nhà Đạo đã xuất tác các tượng hình, ảnh mẫu
diễn tả Đức Giê-su mặc long bào phẩm phục của Vua Chúa, tay cầm quả cầu, tượng
trưng cho Vua Trái Đất. Vua Hoàn Cầu.
Thế đứng của Đức Kitô-Vua trông uy nghi, tráng
lệ. Và, Đức Maria, Mẹ Ngài cũng trở thành Nữ Vương Thiên Đàng, đầy tình yêu
thương của Mẫu Hậu. Điều này cũng dễ hiểu. Chí ít, là vào thời mà con dân Đạo
Chúa bị triền miên bách hại, trong nhiều tháng. Từ đó, Đạo Chúa tôn kính Đức
Kitô-Vua đã trở thành sức mạnh uy phong, tồn tại cùng với nhân gian, ở trần
thế.
Có thể coi đây là thành công lớn của thần
quyền, có dân gian. Tuy nhiên, dân gian phàm trần vẫn cần đề cập nhiều đến
không gian thần thánh, cao cả hơn. Chốn không gian biểu lộ tính chân phương
đích thực của Đức Kitô, Vua Vũ Trụ. Vua oai phong. Hiền từ. Nhân hậu.
Từng thế kỷ và thế kỷ, trôi qua. Cả đế quốc hùng mạnh của Constantine,
cũng không tồn tại. Nhưng, các đặc trưng/đặc thù thời vua chúa nơi nhà Đạo, vẫn
ở lại mãi với ngôn ngữ và phong cách của Giáo hội, rất hôm nay. Cần thí dụ, ta
có thể dẫn chứng khi nói về nơi ăn chốn ở của các vị Giáo hoàng, các Giám mục
mà ta có thói quen đặt cho cái tên như “dinh”, như “toà”. Và, phẩm phục đại lễ
của các ngài, vẫn mang dáng dấp áo mũ/cân đai rất long trọng. Đắt tiền.
Vấn đề còn lại, là: các tài sản và báu vật lịch sử ấy, đã phần nào đối
chọi và mâu thuẫn với điều mà Đức Chúa nói về Ngài. Về phong cách của vị Vua
Cha vẫn trị vì cả và thế gian. Nói cho cùng, tính chất vua quan, lãnh chúa của
Ngài, đã được ghi vào khuôn khổ của trình thuật Thương khó. Rất thống khổ.
Phúc âm thánh Gio-an hôm nay, được rút từ văn bản nổi tiếng của Tân Ước,
trong đó có quả quyết của Chúa về tính Vua-Cha, đối với thần dân, ở cõi thế: “Ngài
tự nói điều ấy. Chính ngài nói Tôi là Vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian là để
làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng Tôi”.
Với thế giới hôm nay, số vua quan nữ hoàng dám nói điều đó với dân
đen/quần thần, quả rất ít. Tệ hơn, chẳng vua quan nào yêu dân đến độ sẵn sàng
hy sinh cho họ. Chết cho họ. Ngược giòng lịch sử, ta hiểu rằng: khi sự thật về
tình yêu Vua-Cha hy sinh như thế, đều mang sắc màu của một Thương Khó. Và, đây
mới là sự thật về tính chất vua chúa/quan quyền mà trần gian không thể thấy.
Vua quan/lãnh chúa ở trần gian, bao giờ cũng thấy khó có thể hy sinh,
cho một ai. Càng khó hơn, khi họ phải thương yêu thần dân của mình đến độ hy
sinh mạng sống của riêng mình, cho dân đen. Nhưng với Đức Kitô, qua tư cách
Vua-Cha của mình, Ngài giàu lòng thương mến. Chẳng gây thương tổn, cũng chẳng
làm hại bất cứ người nào trong dân mình. Là Vua-Cha vũ trụ, Ngài không đầu hàng
thoái thác trước thương đau. Nhưng, vẫn rao truyền tình thương, bất chấp khó
khăn. Ngài khuyên răn, bảo vệ thần dân của Ngài. Vẫn luôn mãi.
Là Vua Tình Yêu, luôn chấp nhận những thương cùng khó, Đức Kitô-Vua
chẳng bao giờ bỏ mặc dân con chốn điêu tàn lẻ loi, đầy chết chóc. Vua Kitô vẫn
bộc lộ lòng thủy chung rất mực của Vua Tình yêu. Vẫn một mực thương yêu trung
thành với dân Ngài, cho đến chết. Và, lại là cái chết nhục nhã như tên trộm.
Thua kém cả dân đen, hèn hạ.
Theo gương Ngài, ta chớ để quyền uy, sức mạnh của trần thế uy hiếp, dẫn
dụ. Chớ nên để mắt mình mờ loà trước mọi hào nhoáng chóng qua, của tiền tài vật
chất, khó chối từ. Theo gương Ngài, ta chớ dại mà dấn thân đeo đuổi những mồi
chài lợi lộc cùng quyền uy của vua quan/thủ lĩnh nơi gian trần, đang lôi cuốn.
Trái lại, hãy ngước mắt lên mà hướng thượng. Hướng về Đức Kitô, vị
Vua-Cha nhân hiền hằng thương yêu dân của mình, hơn mọi hoàng gia/lãnh chúa,
chốn nợ đời. Bởi, chỉ mình Đức Kitô-Vua mới dám nói về Sự thật, với lòng thương
yêu, trìu mến. Ngài không chỉ nói bằng lời, mà còn nói bằng việc chấp nhận bỏ
mình để chứng minh cho sự thật Tình yêu, Ngài phú ban.
Đó là Sự thật rất khách quan. Sự thật, đến với
mọi người, nơi trần thế. Sự thật, gửi đến với thần dân, Hội thánh. Sự thật về
lòng thương yêu không bến bờ. Yêu thương mọi người. Yêu cả dân đen yếu hèn, hạ
cấp. Yêu đến độ bỏ thân mình vì người mình yêu mến. Bỏ áo mão cân đai tài sản,
triều đình. Bỏ, để chung sống vực dậy thần dân yếu hèn, đối tượng của tình
Vua-Cha.
Trong tinh-thần cảm nghiệm về ý-nghĩa của
Vua/Cha, ta ngâm lại lời thơ Vua, rằng:
“Miễn tội, em đừng bỏ phế Vua,
Trẫm muốn tru-di đám ngoại thần.
Cô, dì tỷ, muội chẳng can-ngăn,
Nơi nào em tối niêm phong hết,
Cho hả lòng đây nhớ ái-tình. Hà Huyền Chi- Bỏ Phế Vua)
Không bỏ phế, nhưng vẫn tôn-trọng và phò Vua
Kitô, chủ-tể vũ-trụ. Không bỏ phế, nhưng vẫn tuân-thủ lời khuyên dạy Ngài,
chỉ-thị để sống với mọi vua/quan lãnh chúa hết người. Ở đời.
Lm Richard Leonard sj biên soạn
Mai Tá lược
dịch
No comments:
Post a Comment