Suy Tư Chúa nhật thứ
15 thường niên năm B 15/7/2018
(Mc
6: 7-13)
Người
gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các
ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các
ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực,
bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. Người
bảo các ông: "Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho
đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi
ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ." Các ông đi rao giảng,
kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều
người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
“Xưa anh là kẻ nghiện sông hồ,”
“Đây đó lan dài gót lãng du”
(dẫn
từ thơ Nguyễn Bính)
Gót
lãng du, đâu có là gót nện của nhà thơ đi đây đó. Nghiện sông hồ, có thể là nỗi
niềm của người anh, lâu rày đó đây, xuất hiện ở bầu trời nhiều dấn bước theo
chân Chúa, rất lâu ngày.
Trình
thuật thánh Máccô, nay kể về sinh hoạt của các vị thánh bước theo chân Thày,
hăng say mục vụ tiếp nối công trình của Chúa ở Nam Galilê. Các ngài là nhóm
tông đồ đa năng, đa dạng. Có người có gốc nguồn từ xứ miền Hy Lạp như thánh
Philipphê, Anrê, còn lại là người Do thái như thánh Giacôbê, Batôlômêô, Tađêô,
Simôn, vv. Các đấng bậc thuộc nhóm tuyển không giỏi về học thức, cũng chẳng đạo
đức như đấng bậc khắc kỷ/khổ tu, nhưng lại hân hạnh được đi theo Đấng Ngôn Sứ
luôn di chuyển. Các thánh được chuẩn bị dứt đoạn với gia đình, giòng họ, xã hội
cùng chòm xóm và quyết tận hiến cho Ngài.
Một
số vị như thánh Tađêo, ta được biết chỉ danh tánh, mà thôi. Còn thánh Phêrô,
Giacôbê vẫn nổi danh là lãnh tụ nhà Đạo ở thế kỷ đầu. Cũng tựa như Đức Giêsu,
thánh Phêrô không để lại bút tích nào để thế hệ sau này theo đó mà biết rõ. Riêng
thánh Phêrô lại đã trao quyền quản cai hội thánh ở Giêrusalem cho thánh Giacôbê
để đích thân khơi mào sứ vụ đặc biệt cho dân ngoại ở Syria. Các đấng bậc trổi
trang về thừa sai/mục vụ phải kể đến là thánh Phaolô từng sống cùng thời với
Chúa, nhưng chưa một lần giáp mặt Ngài. Thánh Phalolô cũng là tông đồ đắc lực của
Chúa nhưng thánh nhân lại không ở trong cùng nhóm Mười Hai. Trái lại, thánh
nhân từng bách hại người của Chúa và cuối cùng lại đã trở thành tông đồ đắc lực
hơn cả. Các tông đồ của Chúa đều có chung một đặc điểm là hết lòng tin tưởng
vào Thày Chí Thánh đáp lại lời kêu gọi mọi người cùng hợp tác trong rao giảng
Tin Mừng.
Thật
ra, có ba nhóm tông đồ gần cận Chúa hoạt động theo kiểu vòng tròn khép kín gồm
các bậc vị vọng sinh hoạt rất đắc lực. Nhóm đầu là nhóm 12. Nhóm thứ hai gồm
các nữ phụ, trong đó có Maria Mađalêna, chị em nhà Lazarô ở Bêthania, cùng
Joanna vợ của Chuza (thượng thư của Hêrôđê), cả Maria mẹ của thánh Giacôbê nữa.
Viết Tin Mừng, các thánh sử chăm chút ghi tên các nữ phụ này và coi các bà là
người theo Chúa hầu để được sẻ san lời Ngài dạy và giúp chất liệu cho thế hệ nối
tiếp phục vụ Hội thánh.
Các
bà là những người vẫn quẩn-quanh bên Chúa khi Ngài dấn bước vào chốn khổ hình của
thập tự. Và, các bà còn là chứng-nhân đầu hiện diện ở mộ phần ngay vào lúc Chúa
sống lại. Trong lúc ấy, nhóm 12 lại cứ lánh mặt vì hãi sợ, chủ bại. Với người
cùng thời với Chúa, sự cộng tác của bậc nữ lưu dám để chồng ở lại nhà mà theo
Chúa, đã gây tai tiếng không ít cho người ngoài cuộc. Nhưng Chúa đi ngược lại
qui ước vẫn có ở xã hội thời Ngài sống.
Nhóm
thứ ba, là các vị có cảm tình với công trình của Chúa thi thoảng mới tham gia
sinh hoạt để giúp Chúa, thôi. Các vị nổi danh như: Ladarô, Nicôđêmô, Zakê,
Giuse thành Arimathêa, đều là đấng bậc không rời bỏ gia đình và xã hội mà các vị
đang sống, mà chỉ phụ giúp Chúa một đôi lúc, thôi.
Tuy
các bậc nữ lưu trên, tuy đã thực hiện công việc thừa-tác cho Chúa là thế, nhưng
vẫn không được Hội thánh gọi là “tông đồ” bao giờ hết. Lý do là bởi, cụm từ
“tông đồ” bên tiếng Do thái có nghĩa “tamid”
hoặc “tamilda” tiếng Aram, không phải
là giống cái. Tự vựng Aram không có từ “tông đồ nữ” và cũng chẳng có danh từ “nữ
phụ làm tông đồ” để đối chọi với từ nam tông-đồ được sử dụng rộng rãi trong văn
chương chữ viết của Do thái. Tuy nhiên, với cộng đoàn Phaolô, nữ giới vẫn đồng
quyền về mọi mặt với nam nhân, từ việc nguyện cầu cho đến nghi tiết phụng vụ hoặc
mọi công tác được ngôn sứ thi hành.
Thời
thánh Phaolô đến mãi về sau, nhóm 12 lại đã trở nên thành-phần quan trọng không
thể thiếu trong Đạo. Tuy nhiên, vai trò của các ngài chỉ mang tính tượng trưng
rất tri thức chứ không có thực lực ở xã hội ngoài đời. Cộng đồng người Do thái
gồm tất cả 12 chi tộc phân tán rộng, trong khi đó nhóm 12 lại vỏn vẹn chỉ gồm
12 vị chuyên chăm hỗ trợ cho thánh hội ngõ hầu giúp duy trì quyền thừa kế Chúa
hứa ban cho dân Ngài. Xem thế thì, nhóm 12 lại đã tượng trưng cho cộng đồng dân
tộc theo cung cách thu nhỏ kiểu “bỏ túi”, khá vi mô.
Ý
Chúa chỉ muốn thế. Ngài chủ trương tái tạo Israel gồm chỉ 12 chi tộc gọn nhẹ.
Và, Ngài những muốn cải tổ niềm tin ở dân con mọi người, khởi từ nhóm 12 được
tuyển chọn, giống hệt đất nước Israel nhờ vào ân huệ trinh trong, cô đọng. Chúa
đã sai nhóm 12 của Ngài đi khắp chốn để truyền rao Tin Mừng Ngài đem đến; nhưng,
các thánh cũng chẳng đi đâu thật xa, mà vẫn chỉ khu vực gần cận thôn làng bé nhỏ
quê miền đồng nội có người địa phương thân thương sống quẩn-quanh đây đó qua nếp
sống cơ bản theo khuôn thước xã hội vùng Địa Trung Hải thời cổ xưa.
Nói
chung thì, các thôn làng nơi đó chỉ là khu chung sống rất bé nhỏ thật vắng lặng,
chứ không là chốn thị thành phồn hoa phức tạp, đầy kích bốc. Các thôn làng nơi
đó, chẳng có cao ốc với hội đường gì trổi bật nhưng các ngài vẫn đến tụ tập đều
đặn, ít là vào ngày Sabát. Quây quần nơi phố chợ hoặc khu vực râm mát có cơ
ngơi chỉ gồm những người gần gũi/thân quen thôi. Ai nấy quây quần quyết xây dựng
một cộng đoàn mang tinh thần giao hoà mộng ước, rất phải lẽ.
Đức
Giêsu chẳng hề khuyên bảo đồ đệ Ngài phải dựng xây tinh thần một Israel mới -mẻ
như những hội thiện nguyện khác hẳn cộng đoàn. Bởi nơi đó, đã có sẵn cộng đoàn
từng hoạt động hệt như thế. Ngài không thôi thúc dân con mọi người hãy rời bỏ
gia đình mà đến với làng mạc rày đây mai đó thành đám du mục chẳng định hướng.
Ngài không đòi họ tập trung sinh sống theo cung cách riêng tư cá thể. Nhưng,
theo từng nhóm nhỏ cộng đoàn như ta thấy. Ngài không muốn mọi người sống chuyên
chăm nhiệm nhặt, tức chẳng để tâm gì về thể chất, xác phàm. Điều Ngài bận tâm
là dạy họ biết lắng tai nghe sứ điệp cần thiết để được chữa lành, thứ tha và về
với quyết tâm đổi mới cuộc đời. Ngài muốn dân con của Ngài kiến tạo một Israel
thực sự đổi mới con người mình.
Quê
nhà, họ trở về cũng sẽ là các khu vực gần cận bên nhau. Chính vì gần cận, nên
phần đông trong họ sẽ đi vào quan hệ mật thiết như người gần gũi rất thân quen.
Mỗi làng/xã sẽ sinh hoạt theo kiểu riêng tư dễ phân biệt, ngoại trừ những khủng
hoảng liên quan đến tình trạng của đất nước họ. Thật khó cho người ở ngoài chịu
trở về sống ở thôn làng nơi mà người cùng làng lại xử sự cách khác nhưng đôn hậu,
mật thiết. Muốn được thế, người người phải tham gia nhập cư theo cung cách hiền
hoà, phải lẽ. Chính đó là ý Chúa muốn sai phái đồ đệ ra đi từng nhóm đến với
thôn làng để các ngài không bị ai ám hại, hoặc gây khó. Đằng khác, đi từng cặp,
cũng để thực hiện sứ vụ thừa sai cho dễ hơn là chỉ một mình đơn độc, không người
giúp.
Ra
đi về với thôn làng hiền lành, các thánh được dặn không mang theo cơm áo, gạo
tiền. Cũng chẳng bận tâm chuyện sửa soạn giày dép, áo mão hoặc gậy gộc dù đi
xa. Nhưng vẫn gọn nhẹ. Giản đơn. Đi như thế, mới giống cung cách của người túng
thiếu/nghèo hèn, ở trong huyện. Chẳng khó dễ, cũng chẳng gây trở ngại cho ai,
dù người ấy có là giới cầm quyền hoặc những vị chỉ tính chuyện tranh giành, chấp
nhất. Lệ làng về tính hiếu khách sẽ là kim chỉ nam giúp các thánh thực hiện
tính giản đơn, hèn mọn, không câu nệ. Nhất nhất nơi nào các thánh đến, cũng
không dừng lại lâu. Không đi quanh quất/khất thực, mất thể diện. Và, chỉ chấp
nhận những gì người nhà bố thí cho ăn mặc mà thôi. Nói chung, các thánh vẫn phải
ăn ở hiền lành, cư xử cho phải phép cả với người hiếu khách, lẫn kẻ ngược ngạo,
bạo hành.
Đến
đâu, các ngài cũng nên chuyện trò thân mật. Kể cho nhau nghe những việc được Chúa
quan tâm dạy bảo; nếu cần, phải chữa lành và tha thứ theo cách thế hiền từ Thày
từng làm mẫu. Và, việc chữa lành Chúa dặn, cần được tiếp tục và hành xử đầy
lòng tha thứ, để người người có cơ hội gần cận Chúa. Làm như thế, mới chứng tỏ
được rằng: Nước Trời đã đến với thôn làng bé nhỏ để người người hoàn thiện cuộc
sống, như Chúa muốn.
Trình
thuật thánh Máccô kể hôm nay, được đặt chung với trình thuật về cuộc đời hoạt động
công khai của Chúa quyết đổi mới Israel như Hội thánh Nước Trời, theo ý Chúa.
Áp dụng vào với thánh hội thời hiện tại, thật cũng khó. Khó, là bởi các đấng bậc
chủ quản hôm nay, vẫn tự hào mình là các đấng bậc kế vị nhóm 12, nhưng lại
không dám rời bỏ của cải, bạc tiền cùng những thứ xa hoa, lộng lẫy để về sống đời
chân chất, mọn hèn. Vấn đề đặt ra cho các đấng bậc đang chủ trì Hội thánh hôm
nay, là: làm sao sống giản dị như Thày mình đòi hỏi. Có thế, mới yêu cầu mọi
người sống như mình.
Tuy
là khó, nhưng không có nghĩa là thánh hội mình không có lối thoát để bắt chước
Chúa và nhóm 12 chấp nhận sống bình dị như người thường ở huyện. Tức, không
giàu và cũng chẳng sang, chỉ làng nhàng đủ sống. Tức, sống dễ dàng, không áp đặt
cấu trúc/luật lệ nào cầu kỳ, bắt buộc phải phấn đấu. Nhưng, quyết áp dụng
nguyên tắc nhập thế và nhập thể, hầu chịu hạ mình xuống để sống hoà đồng cùng
các người em mọn hèn, ở trần thế. Để được thế, Hội thánh hôm nay còn phải ngang
qua nhiều hành trình xuyên suốt, rất quyết tâm.
Trình
thuật theo thánh Máccô hôm nay sẽ là khởi điểm với đầy quyết tâm như thế. Quyết
tâm dấn bước. Vui vẻ chấp nhận đời bình dị của người bình thường ở huyện, chốn
thấp hèn. Để rồi, thánh hội mình dám xác chứng với người bình thường ở mọi nơi
rằng: họ mới là dân con thực thụ, của Đức Chúa.
Trong
tâm tình đó, có lẽ cũng nên ngâm tiếp lời thơ vừa khởi xướng rất như trên, rằng:
“Xưa
anh là kẻ nghiện sông hồ.
Đây,
đó, lan dài gót lãng du.
Về,
chẳng có kỳ, đi chẳng hẹn.
Như,
mây mùa thu, lá mùa thu.”
(Nguyễn Bính – Chú Rể Là Anh)
Là
anh hay em, cũng một chú rể bình dị ở huyện nhà. Là, kẻ những “nghiện sông hồ”,
“đây, đó, lan dài gót lãng du”. Rất mùa thu. Mùa, của những đi mà không hẹn. Về,
cũng chẳng kỳ hạn. Vẫn ra đi dựng xây thánh Hội giản đơn. Bình dị, lành thánh.
Tuy rất nghèo hèn, nhưng hạnh ngộ.
Lm
Kevin O’Shea DCCT biên soạn – Mai
Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment