Với sách Đệ Nhị Luật, “hạt linh hồn” Torah “chính là sự sống” (ĐNL 32:
47). Sống, Lời mặc khải Chúa gửi đến với dân con Do thái, người của Chúa. “Hạt
linh hồn” Luật, đượm nhiều ý nghĩa của một lời hứa gửi đến những ai biết giữ
luật, dù họ và ta chưa từng thấy ai giữ được cách hoàn hảo, cả.
Điều thường thấy hơn cả, là: những người sốt sắng giữ Luật lại có cuộc
sống rất bất toàn. Thế nên, nhằm để giúp dân con hoàn thành cuộc sống có luật
có lệ, giống như truyền thống của người Do Thái xưa, Luật Torah được bổ sung
thêm hai mô hình, là: “halakah” và “haggadah”.
Haggadah, là bộ sưu tập gồm những truyện huyền ảo dùng làm cơ sở cho nền “thần
học” thời ấy. Và, là lời kinh tung hô chúc tụng Chúa. Nhất nhất, mỗi truyện mỗi
tóm gọn nét diễm kiều của Luật, nhưng lại không chứng tỏ được cách sống hợp với
luật theo tình cảnh của mỗi người.
Halakah, là lời bình về Torah theo đúng nghĩa đen. Theo tiếng Do Thái, thì cụm
từ “Halakah” có nghĩa là: “ra đi”. Là, “lên đường”, ta dấn
bước. Là, con lộ tẻ trên đó người người dấn bước ra đi, để thực hiện lề luật
người xưa lập. Đi, như kẻ từng thấm nhuần nền đạo đức, rất Torah.
Hôm nay, ta thử tìm hiểu xem cụm từ Halakah có ý nghĩa gì với
tình cảnh của nhà Đạo.
Sau ngày trở về từ chốn lưu đày xứ Babylon, Halakah lâu nay phát
triển, cũng khá mạnh. Chính Ezra và Nêhêmia, là những vị dẫn đầu truyền thống
ấy cho đến thời của Mishnah.
Tiếp đó, truyền thống này được triển khai nhờ có sự dẫn dắt của các thượng tế, kể từ ngày Giêrusalem bị phá huỷ vào thập niên 70. Từ dạo đó, các nhóm hội nhà Đạo đều thực hành chính Halakah của mình, như: nhóm Pharisêu, Ét-xê-nô, Qumran, nhóm Nhiệt Thành, vv…
Tiếp đó, truyền thống này được triển khai nhờ có sự dẫn dắt của các thượng tế, kể từ ngày Giêrusalem bị phá huỷ vào thập niên 70. Từ dạo đó, các nhóm hội nhà Đạo đều thực hành chính Halakah của mình, như: nhóm Pharisêu, Ét-xê-nô, Qumran, nhóm Nhiệt Thành, vv…
Phần lớn luận cứ do các nhóm này đưa ra để tranh luận về luật Đạo, lại
là “Giới luật Yêu Thương”, tiếng Do thái gọi là hesed, tức: tình
thương gia đình. Nếu vậy thì, giới lệnh nào là luật quan trọng nhất, của Torah?
Câu hỏi này, không là vấn nạn căn bản đối với nhóm hội/đoàn thể, của
người xưa. Bởi, các thượng tế khi xưa vẫn đều hỏi nhau như thế. Hỏi, là hỏi rất
nhiều lần những gì được ghi ở 613 điều khoản khác nhau trong bộ luật Torah. Các
vị này có thói quen bốc thăm xem luật nào thích hợp với nhóm mình hơn và điều
khoản nào, là giới lệnh quan trọng nhất. Hillel, một học giả Do thái đã trả lời
cho câu hỏi trên, tựa như thánh Mát-thêu ghi ở trình thuật hôm nay. Thánh nhân
dùng đó như những Lời xuất phát từ miệng Đức Giêsu Kitô. Thật ra, ta không có
chứng cứ cụ thể nào để quyết được rằng: thánh Mát-thêu có biết rõ chuyện ấy hay
không mà sao thánh nhân vẫn coi đó như Lời của chính Chúa.
Với các nhóm/hội Do thái nói trên, nhóm nào cũng nhận ra hai khuynh
hướng được đề cập rất rõ: một, là khuynh hướng cứng ngắc, đặt nặng lên nghĩa
đen của Luật. Còn chiều hướng kia, uyển chuyển hơn, chỉ chủ trương giải thích
lập trường để Luật Torah mang chất “người” hơn. Nhân bản hơn.
Các vị theo khuynh hướng triệt để, vẫn đưa ra những đòi hỏi buộc mọi người
phải tuân giữ Luật Torah, từng chữ một. Họ thôi thúc mọi người sống cách biệt
khỏi thế giới phàm tục. Tức, thế giới của xã hội La Mã và dân ngoài luồng, sau
thập niên 70. Họ cổ suý lối hành đạo theo cung cách sốt sắng, thánh thiện. Nói
cách khác, họ ưa thích lối khắc kỷ, khổ hạnh hơn.
Ngược lại, các nhà chú giải Torah từng theo cung cách rất nhẹ nhàng/uyển
chuyển, lại ưa thích đường lối nhân bản mà Luật nhắm đến. Tức, chỉ nhắm vào nhu
cầu Tình Thương. Vào, những đòi hỏi giúp giùm, đùm bọc người khó nghèo hèn, tật
bệnh tật hoặc có nhu cầu phúc lợi khẩn thiết nhất.
Các vị thường chọn những điều luật dễ dàng cho phép khi áp dụng Torah.
Tức, đi xa hơn mọi ranh giới của luật lệ. Xa hơn, những gì chỉ được viết và
hiểu theo nghĩa đen. Các vị theo Halakah muốn rằng người thi hành Luật
nhuần nhuyễn tinh thần luật, hầu biến các điều khoản ấy thành quyết định cho
riêng mình. Tức, sống thực thụ ý nghĩa và tầm mức thương yêu của luật, với cộng
đoàn. Nói khác đi, các vị muốn người giữ luật được sống thư giãn/thoải mái với
lối chú giải đầy rắc rối. Hạn chế.
Xem như thế, đền thờ Do thái là nơi tốt nhất để mọi người có thể đến mà
bàn luận về những điều về Luật Tình thương, như thế. Và cũng thế, từ thế kỷ thứ
đầu đời, nhất là sau khi đền thánh bị phá huỷ, nhiều người Do thái giỏi
dang/thông minh đã đứng ra đảm nhiệm công việc này. Thời gian trôi mau, nhưng
vẫn không thấy có thêm ngôn sứ nào xuất hiện, từ ngày ấy. Và, cũng từ ngày có
các vị chú giải luật theo khuynh hướng Halakah tạo nên luồng gió mới có
kinh nghiệm từng trải về sức lôi cuốn đưa dẫn mọi người đến với luật yêu
thương. Và, con số các vị áp dụng luật theo cách gò bó/khó khăn cũng ít dần.
Trong khi đó, các vị chú giải theo cách thoải mái/uyển chuyển đã thu hút
được rất nhiều người nghe. Cáv vị này tạo được trào lưu đích thực về sự thông
thoáng, khi giữ Luật. Tạo được lòng xót thương nhân bản, cho mọi người. Các vị
cũng được coi là những người chuyển luật tình thương Torah, với mọi người.
Ví dụ điển hình về địa hạt thực dụng và đúng đắn của Halakah, là:
việc thực hành các trường hợp ly dị và tầm quan trọng của ngày Sabát. Xem thế
thì, ngay cả khi không thấy Luật Torah đề cập đến chuyện ly dị, theo nguyên tắc
và trường hợp cho dân con Do thái được phép lao động chân tay, ngày Sabát, cũng
đã thấy có nhiều uyển chuyển, giữ luật theo tinh thần, chứ không đặt nặng từng
chữ, vẫn đực tiếp tục thực hành. Và tên tuổi các nhà làm luật gò bó, phải kể
đến Shammai là người rất nhiệm ngặt về luật. Trong khi đó, Hillel là nhân vật
chủ trương Halakah thông thoáng, uyển chuyển hơn.
Trong tầm nhìn như thế, có thể nói là: các nhà chú giải luật có tính
phóng khoáng của Halakah đúng là anh em ruột của thánh sử Mát-thêu, và
Đức Giêsu. Bởi, khi đọc Tin Mừng của thánh nhân, ta đọc ra giòng chảy của một
thức giả Do thái từng biết nhiều/hiểu nhiều về thói quen, cung cách và luật lệ
Do thái. Thánh Mát-thêu hiểu rõ Đức Giêsu là người Do thái. Và như thế, thánh
nhân chính là vị thánh đã quảng bá rất thành công đường hướng luật đích thực,
của Đức Chúa.
Thật sự, thánh Mát-thêu đã thánh nhân trong việc định vị Đức Giêsu như
Nhà Làm Luật rất thông thoáng, theo kiểu Halakah. Thánh nhân còn là sử
gia chuyên viết về luật Halakah của Đức Chúa. Đấng đưa ra luật Tình
Thương, viết bằng khẩu lệnh. Lời Khuyên rất am tường, uyển chuyển. Ngài không
bức bách. Không ép buộc. Và, giòng chảy thánh Mát-thêu thực hiện, chính là Tin
Mừng theo thánh Mát-thêu, ta vẫn nghe. Xem như thế, ta có thể gọi đó là Halakah
đấng thánh, cũng rất được.
Halakah do thánh Mátthêu ghi, bắt đầu bằng “Bài Giảng Trên Núi”, một hiến
chương hay còn gọi là luật thực thụ do Chúa tạo nên. Là, định luật theo ánh
sáng và tinh thần này. Và, bận tâm của thánh Mát-thêu là cốt để thiết lập những
gì mới mẻ, nơi lời giảng dạy của Đức Chúa hầu ăn khớp với lịch sử của người Do
thái. Sự mới mẻ này, vượt quá và vượt trên những gì đã được viết trong Torah.
Điều mới ấy, còn thấy rõ trong các trình thuật do thánh Mátthêu ghi, suốt hành
trình viết sử của ngài.
Tóm lại, có thể nói:Halakah theo kiểu của thánh Mát-thêu, từng là
và luôn là Luật Tình Thương của Đức Chúa. Là, câu trả lời thoả đáng cho câu
hỏi: đâu là giới lệnh cao quý nhất, của Luật Torah? Cuối cùng, thì Torah
chỉ là và phải là Luật Tình Thương, thôi. Chính vì thế, ta có thể nói: thánh
Mát-thêu là người Do thái, rất đích thực. Là, thánh sử rất thực thụ, chuyên
chép lại đường lối rất chính xác của Đức Giêsu. Của, Hội thánh rất tiên khởi.
Diễn tả các chi tiết trên theo tâm tình của nhà thơ, ta có thể kể thêm
như sau:
“Nghe nói người Tiên vẫn hiện hình,
Bước ra từ những cõi u linh.
Em như cô Tấm trong hoa thị,
Về đứng nhìn tôi, trên nước xanh.”
(H.P. Ngọc Tường – Hoa Thuỷ Tiên)
Đành rằng, Thủy Tiên không là Torah, Luật Do Thái. Cũng chẳng là nhân
sinh quan sống động của Halakah. Nhưng, Thuỷ Tiên ấy, người Tiên nọ vẫn
cứ “hiện hình từ cõi u linh”, để nói rằng: Luật gì thì luật, vẫn không thể qua
được Luật Tình Thương, của Đức Chúa. Rất mặn nồng.
Lm Kevin O'Shea, DCCT biên soạn
Mai Tá lược dịch
Lm Kevin O'Shea, DCCT biên soạn
Mai Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment