Saturday 26 September 2015

“Ta từng có từng buổi sầu ghê gớm,”



Suy Tư Tin Mừng trong tuần 27 thường niên năm B 04/10/2015

Tin Mừng (Mc 10: 2-16)

Một hôm, có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?" Họ hỏi thế là để thử Người. Người đáp:"Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?" Họ trả lời:"Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ." Đức Giêsu nói với họ:"Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly." Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy. Người nói:"Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình."

Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông:"Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào." Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.


“Ta từng có từng buổi sầu ghê gớm,”
“Ở bên Em – ôi biển sắc, rừng hương!
Em lộng lẫy như một ngàn hoa sớm,
Em đến đây như đến tự thiên-đường.”
          (Dẫn từ thơ Đinh Hùng)
            Khi yêu nhau, anh thường nói những lời như thế. Khi có người khác xen vào rồi, anh còn nghĩ thế nữa không? Đây có thể là câu hỏi của nhiều người, cả chị Mary ở truyện kể bên dưới.
Hồi Đệ Nhị Thế Chiến, Mary là một trong số phụ nữ đem lòng yêu thương người lính Mỹ, ở nơi xa. Năm 1945, cô lập gia đình với một Thiếu Tá Mỹ theo Anh giáo, tại bàn thờ nhỏ ở giáo đường Công giáo. Gặp thiếu tá bảnh trai, lại hay ăn diện, Mary đã chiều chồng theo anh về Philadelphia, vào độ ấy. Đây cũng là năm hai vợ chồng nôn nóng chào đón đứa con đầu lòng.
Về nhà chồng, Mary mới khám phá ra là chồng mình chẳng gan dạ như mình tưởng. Anh lệ thuộc vào người mẹ giàu có, vốn giòng hào kiệt, chẳng ngại tỏ bày ngay là bà chống-đối cuộc hôn-nhân giữa cô và con bà. Cuộc sống của Mary từ đó, đã nên như cơn ác-mộng. Căng thẳng bùng nổ vào lúc Brendan vừa mới chào đời.
Chẳng còn nhớ, mình từng hứa cho con cái rửa tội theo nghi thức Công giáo, nữa. Người trai tráng giống giòng nhà binh, quyết định mình chẳng dại gì rơi vào vòng chiến chống đối lập trường của mẹ, là người từng tuyên bố: đứa nào cho cháu của bà rửa tội theo hình thức “Đức Giáo Tông Công giáo”, bà sẽ cắt đứt quan hệ, không cho thừa hưởng gia tài. Quen bị áp lực, vị thiếu tá nhà ta bèn yêu cầu buộc Brendan phải được rửa tội theo nghi-thức Anh-giáo, điều này làm cho Mary đau khổ không ít. Cô bèn vơ quàng ít áo quần đem con đi rửa tội theo Công giáo, rồi ra đi.
Ly thân với chồng từ năm 1950, Mary nay gặp được Maurice, một nam thanh tài trí tuyệt vời muốn cưới Mary làm vợ. Và đồng ý làm cha ghẻ trông nom nuôi nấng Brendan. Hai người đến gặp cha xứ trong vùng, để cầu cứu. Cha xứ daỵ: cô cậu không thể làm đám cưới trong nhà thờ được, vì đã có hôn thú ngoài đời.
Bởi, làm thế, sẽ có nguy cơ xuống hoả ngục, chốn miên trường không cứu vãn (?) Và, những tháng ngày căng thẳng đến với hai người. Từ đó, Mary quyết định rời bỏ nước Mỹ, chỉ vì lý do đạo giáo ở đó quá khắt khe. Thế nhưng, Anh giáo là giáo phái cô từng ca ngợi, cũng “cổng đóng then cài” chẳng đối xử gì với cô cho dễ dãi.
Tin mừng hôm nay, nói rất thẳng về hôn nhân và ly dị. Vào thời Chúa sống, chỉ một ít phụ nữ là có quyền có hạn, trước pháp luật, mà thôi. Họ là những người nữ giàu sang thuộc giòng tư tế, nên mới được thế. Tức là, chỉ mình họ mới được phép ly dị chồng, thôi. Ngoài ra, đa số phụ nữ thời ấy vẫn được coi là vật sở-hữu của cha đẻ, chồng hoặc con ruột, chỉ có thế. Người chồng có thể lập đơn ly-dị vợ, bất cứ lúc nào, với bất kỳ lý-do gì mình đưa ra. Và người chồng còn được phép tống-khứ người đàn bà từng là vợ mình, ra khỏi nhà. Được phép, làm nhục vợ bằng cách trao trả vợ về với mẹ ruột, của cô ta.
Chẳng thế mà, Đức Giêsu cương-quyết phá-đổ luật-lệ có liên-quan đến lòng chung-thủy và chịu-đựng của người nữ. Cung-cách Chúa diễn-giải luật Môsê đã tạo thế bênh-vực cho quyền-lợi của người phụ nữ. Đồng thời, bảo-vệ nhân-cách và sự an-toàn của các bà.
Hôm nay, hầu hết các xứ đạo Công-giáo của ta, không ít thì nhiều, đều có sự hiện-diện của giáo-dân từng ly-dị và tái-lập cuộc sống hôn-nhân, theo qui tắc. Chắc chắn nhiều vị đang ở trưòng-hợp này, đang có mặt ở đây, hôm nay.            
Về tính tiêu-cực của thông-điệp ta nghe biết hôm nay, tôi nghĩ mình cũng nên để lời khen ngợi và khâm-phục niềm-tin can-đảm của bà con. Khâm-phục và cảm-kích, khi biết Chúa yêu-thương mình đến độ nào. Và, cũng khâm-phục bà con ta kiên-trì có mặt ở đây, vào thánh lễ mỗi tuần.
Mặt khác, Hội-thánh đang giáp mặt với vấn-đề duy-trì sự chung-thủy của tình-yêu đôi lứa trong hôn-nhân, dù đang có nhiều gia-đình vẫn tìm cách ly-thân/ly-dị, sống xa cách. Có thể nói: ta đang bị kẹt giữa lý-tưởng Chúa đem đến và tính yếu-mềm của con người mà ta đeo mang, theo phương-án khác-biệt. Ngặt một nỗi, là ta chưa có được thế quân-bằng giữa hai sự-kiện đó.
Trên thực-tế, phương thuốc điều-trị mà Hội thánh mang đến cho các gia-đình đổ vỡ, vẫn là huỷ-bỏ hôn nhân có khi trước. Huỷ bỏ, không là việc ly-dị theo cách của người Công giáo. Huỷ bỏ, chỉ muốn tỏ ý rằng: có những yếu-tố mà hai người phối-ngẫu chưa nhận ra được, vào lúc đó. Nghĩa là, trước đó, họ chưa từng nhận bí-tích hôn-phối theo nghĩa đích-thực và trọn-vẹn, ngay từ đầu.
Vì thế nên, bí-tích hôn-nhân của họ không còn hiệu lực. Và, cũng chẳng còn giá trị gì nữa. Chính vì thế, nhiều người Công-giáo và cả người ngoài Đạo, không thể đương-đầu với thủ-tục pháp-lý kéo dài, có liên-quan đến việc hủy-bỏ hôn-phối vào lúc trước. Việc này, có thể là kinh-nghiệm từng-trải, rất đớn đau, cho nhiều cặp.
Có người biện-giải là: Hội-thánh của ta nên tránh xa phương-án-mới giải-quyết hôn-nhân theo luật-lệ. Tức, giống như Đạo Chính Thống sử-dụng Bí-tích Giải-tội để huỷ Bí-tích Hôn-nhân, khi có trục trặc. Dù thủ-tục diễn-tiến thế nào đi nữa, giáo-huấn Hội thánh về việc này, phải được cân-đo-đo-đong-đếm bằng lòng xót thương.
Trở lại chuyện của Mary, thì: từ 1951 đến 1993, chị và người chồng sau này của chị, vẫn không được phép lĩnh-nhận Bí tích gì hết. Mãi đến 1990, nghe tôi khuyên-giải, chị đã bằng lòng hối-thúc bộ sở-quan mau hoàn-tất thủ-tục huỷ hôn-nhân trước, cho nhanh cho chóng. Mãi đến 1993, hai vợ chồng chị mới được phép rước lễ lần đầu, sau 42 năm trời ròng rã.
Thật ra, Thiên-Chúa chẳng bao giờ rời bỏ vợ chồng chi Mary, hết. Ngài vẫn giang rộng đôi cánh tay ôm để đón-nhận hai người vào cung lòng của Ngài. Để, chúc-lành cho họ, mỗi ngày và ngay hôm cử-hành lễ hôn-phối vào năm 1994, người phù rể cho Maurice hôm đó, lại là Brendan, chú bé ra đời tại Philadelphia năm 1946.
Theo luật thì, Maurice chính thức là cha nuôi của Brendan, ngay sau ngày Maurice cưới Mary, có một hôm. Và, cộng-đoàn chúng tôi hôm ấy, rước Chúa với nước mắt tuôn trào. Chúng tôi hiểu rằng Vương-Quốc-Nước-Trời là cộng-đoàn của những con người bằng xương bằng thịt. Tuy yếu đuối, mỏng mảnh nhưng lòng lúc nào cũng hân hoan rộng mở, suốt mọi ngày.
Trong cảm –nghiệm những điều ra như thế, cũng nên ngâm tiếp lời thơ vẫn hát rằng:

“Những buổi đó, ta nhìn Em kinh-ngạc,
Hồn mất dần trong cặp mắt lưu-ly.
Ôi mắt xa khơi! Ôi mắt dị-kỳ!
Ta trông đó thấy trời ta ma ước…”
(Đinh Hùng – Kỳ Nữ)

Kinh-ngạc lắm, khi nhìn người anh người chị ra như thế. Kinh-ngạc hơn cả, khi mỗi người và mọi người đều cảm-nhận được tình Chúa bao la không bỏ rơi người nào, bao giờ hết. Đó chính là ý-nghĩa của Tin Vui An Bình, rất hôm nay, và mai ngày, trong Hội thánh.
           
Lm Richard Leonard sj biên soạn  - Mai Tá lược dịch

No comments: