Saturday 3 September 2016

“Thiên đường đó xa rồi anh đơn lạnh,”



Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 24 thường niên năm C 11/9/2016

Tin Mừng Tin Mừng: (Lc 15: 1-32)

   Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Yêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Đức Yêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:

    “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó’. Vậy tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

   “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may mấy một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: ’Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.’ Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”

   Rồi Đức Yêsu nói tiếp: “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.’ Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.

   “Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.

   “Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…’ Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rôi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.’ Và họ bắt đầu ăn mừng. “

   Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy tả lời: Em cậu đã về, và cha cậu dã làm thịt bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh  khoẻ.’ Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!’

   “Nhưng người cha nói với anh ta: ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”

“Thiên đường đó xa rồi anh đơn lạnh,”
Thích lang thang, thích ngổ-ngáo với đời.
Thích hoang-đàng, thích phiêu-bạt rong chơi,
Vì mất em, chẳng còn gì hạnh-phúc.”
(Dẫn từ thơ Nguyễn Trung Nghĩa)

Trình thuật hôm nay thánh Luca diễn tả về chuyện đánh mất. Mất chiên, mất tiền, mất người con yêu, nay về lại. Dụ ngôn “người em đi hoang” đã trở về với niềm vui của Cha, là chủ đề chính được mô tả rất kỹ. Mỗi chi tiết, từ ý tứ đến lời văn, nhất nhất qui về niềm vui của Cha khi tìm được những gì đã mất. Ở bài đọc thứ nhất, Môsê đã tìm được tâm tình yêu thương nhân hiền của Đức Chúa, sau cơn lôi đình Người nổi giận vì dân Do Thái vô ơn, bạc nghĩa. Ở bài đọc thứ hai, tình yêu đại lượng của Đức Kitô trao ban trở lại cho thánh Phao-lô, sau khi thánh nhân tìm được niềm tin yêu đánh mất. Và ở bài Phúc Âm, niềm vui mừng cao điểm khi người mục tử tìm được chiên lạc, người phụ nữ tìm ra tiền lạc mất. Và, Cha mở rộng vòng tay đón người con đi hoang trở về.

            Ở trình thuật hôm nay, Cha Nhân Hiền đóng vai trò trọng tâm trong dụ ngôn. Dù người con yêu cầu phân chia gia sản, vung tiền ăn chơi trác táng, mất đi “thiên đường” của giòng họ, Cha vẫn chờ, không giận dữ, chẳng tiếc nuối đã sai đường. Chẳng lên án con bất hiếu. Cha vẫn chờ con về để rộng lòng xót thương, vỗ về.

            Đọc dụ ngôn theo nhãn giới thời bây giờ, hẳn mọi người đều thấy thái độ của anh hai là đúng. Là con ngoan, bổn phận phục vụ Cha luôn chu toàn, không màng danh lợi cùng trọng thưởng, chỉ chí thú một đời làm lụng, không đi hoang phá họai. Các đặc tính ấy không có gì đáng chê trách. Nhưng, thái độ bất đồng của anh, ganh tị với em, hẹp hòi không chịu vào nhà chung vui với mọi người. Đây, chính là thái độ tiêu cực, không được Cha cổ võ.

            Cân nhắc - phẩm bình, là chuyện rất nên. Nhưng quan trọng hơn cả, là: nghe dụ ngôn, phải đặt mình vào bối cảnh của truyện. Dụ ngôn “người em đi hoang” được mở đầu bằng câu: “Các người thu thuế và tội lỗi đều tìm đến Đức Giêsu để nghe Ngài giảng.” Ở đây, dụ ngôn làm nổi bật hai mức độ/lĩnh vực có liên quan hỗ tương. Trước tiên, là sự đối chọi giữa hành vi của người cho mình đạo đức chính trực với tư thế của người bị coi là ngoại cuộc, do thái độ đạo đức của họ. Thứ đến, là thái độ của con dân Đức Chúa (mà đại diện là người con cả “chả bao giờ trái luật”) với người “ngoài Đạo” được đánh giá là người vô luân và phi luân lý (mà người con thứ là đại diện).

            Các cụm từ chính được dùng ở đây, là: “tìm đến” và “nghe giảng dạy” tất cả mọi người –chẳng cần biết trước đây và bây giờ có thái độ thế nào-  nếu chủ tâm biết “tìm đến” Đức Giêsu và ước ao được “nghe Ngài giảng”, thì nhất định không thể là người tội lỗi. Bởi vì, nếu định nghĩa cho chính xác, thì chỉ là người tội lỗi, những ai ngưng không “tìm đến” Đức Giê-su và thôi không muốn “nghe Ngài giảng dạy” nữa, mới đúng. Thật ra, Đức Giê-su vẫn thấy nơi những người tụ tập quanh Ngài, là những người thực sự “tìm đến” Ngài , và muốn “nghe Ngài giảng dạy”, để rồi sẽ đổi thay.        
  
            Trong khi đó, nhóm Pharisêu và các kinh sư đều nhìn tất cả mọi người ở ngoài nhóm của mình đều rập khuôn mang nhãn hiệu “kẻ tội lỗi”. Chính vì thế, họ mới xầm xì về Đức Giêsu, rằng: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15: 2). Đối lại, Đức Giê-su không tranh luận với họ bằng những giải thích giông dài thần học. Ngài dùng dụ ngôn để kể. Và hôm nay, vì họ “đánh mất thiên đường, nơi anh có em”, nên có đến ba bài dụ ngôn được Ngài kể. Cả ba, đều qui về một chuyện: Đức Chúa yêu thương hết mọi người. Ngài mong mọi người quay về với Ngài. Cả khi phạm tội tày trời, Ngài vẫn giang tay nghênh đón.

            Tuy nhiên, ở đây dễ hiểu lầm mà cho rằng, dù ta làm gì tệ phạm đi nữa, cuối cùng rồi Chúa cũng xót thương, tha thứ. Vậy nên, cứ tha hồ làm điều xấu. Trong tương quan với Đức chúa, có hai việc cần minh định. Trước nhất, Chúa yêu thương mọi người chúng ta. Tình yêu của Ngài không mang điều kiện nào hết. Chẳng cần biết ta là ai? Ta có làm gì chống Chúa, chống anh em? Tình yêu Ngài đối với ta, tuyệt nhiên không suy xuyển. 

            Thứ đến, có điều chắc chắn, là: chẳng phải vì ta hiền lành/thánh thiện mà Ngài sẽ yêu hơn hoặc nếu ta phạm lỗi, Ngài yêu ít đi. Thiên Chúa là Tình yêu. Tình Ngài yêu ta rất trọn vẹn. Dù là, đối với các vị thánh như Mẹ Têrêsa. Hoặc, với các kẻ độc tài, hình sự. Bởi nếu không, thì Ngài cũng thiên vị, như ai. Chính vì thế, Ngài mới bảo: “Có là người bệnh mới cần đến thầy lang.”

            Dầu sao, Việc Chúa thứ tha mọi tội, là hành xử vô điều kiện. Điều này thấy rõ nơi dụ ngôn “người em đi hoang” có thái độ của người con đã trót dại: “thích lang thang, ngổ ngáo với đời” và “thích phiêu bạt rong chơi”, như nhà thơ diễn tả. Dù rồ dại, Cha vẫn yêu đứa con “hoang tàng”. Cha không mang thành kiến, hoặc kỳ thị các con: “mãi từ xa trông thấy, Cha đã chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ người con, và hôn lấy hôn để…” Tình yêu của Cha là như thế. Nhưng tình thương yêu tha thứ của Cha chỉ nên trọn vẹn, khi con biết tỉnh giấc, quay về. Nói khác đi, chỉ có thứ tha trọn vẹn khi có hoà giải. Khi vết thương chia cách được chữa lành. Đây chính là ý nghĩa của bí tích hoà giải, thứ tha.

            Trong hòa giải với Chúa, bước dấn thân đầu tiên như “người em đi hoang” đã nghĩ là bước quan trọng. Quan trọng, vì biết chắc Cha sẽ giang rộng đôi tay già ra chào đón ta trở về. Chẳng còn chữ “nếu”, chữ “nhưng”. Chẳng điều kiện, cũng không dè chừng. Không hình phạt, cũng chẳng đòi bồi thường. Điều này, được thánh Phaolô mạnh dạn nói rõ: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu người tội lỗi, mà kẻ đầu đàn là tôi.” (1Tm 1: 15) 

            Cũng thế, đường lối Chúa đón nhận “người em đi hoang” trở về, phải được chứng xác bằng tương quan ta có với người khác nữa. Trong lời cầu Chúa dạy, rõ ràng ta vẫn quyết: “Xin tha cho con mọi lỗi lầm trót phạm, cũng một kiểu như con đã làm cho người anh em.” 

            Cuối cùng ra, khi đã được tha thứ, cũng nên nhớ thêm Lời Ngài đã phán: “Hãy trở nên trọn lành, vì Cha của chúng ta trên trời là Đấng trọn lành”. Điều này mang ý nghĩa rất sáng tỏ: hãy yêu thương hết mọi người, một cách vô điều kiện, như Chúa hằng yêu ta. Và, hãy sẵn sàng tha thứ cũng như hòa giải với từng người như Ngài đã từng làm như thế, với từng người một.

            Việc này không dễ. Nhưng không phải là chẳng thể làm được. Nhưng với sự trợ giúp của Cha, ta luôn hy vọng. Vào tiệc lòng mến  hôm nay, ta cứ hân hoan và hy vọng. Hy vọng là Chúa vẫn thứ tha. Hy vọng là ta cũng sẽ tha thứ hết mọi người. Từ “người em đi hoang” thích phiêu bạt giang hồ, cho chí người anh “vẫn hầu hạ Cha, chẳng khi nào trái lệnh”, và tất cả mọi người.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn  -
Mai Tá lược dịch.

No comments: