Ông
Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến
hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là
chúng tôi còn phải đợi ai khác?" Đức Giêsu trả lời: "Các anh cứ về
thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què
được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo
được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."
Họ
đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: "Anh em ra
xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra
xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì
ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng
thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là
người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt
Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.
Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.
Trình thuật, nay nhấn mạnh một điều quan trọng và mừng vui hơn những gì
dân con Đạo Chúa đáng được hưởng. Đó, cũng là ý tưởng của thánh Gioan, khi
thánh nhân khuyên răn mọi người hãy để lòng mình trùng xuống, mà sám hối. Với
thánh Gioan, sám hối là sám hối trong nguyện cầu, chưa có nụ cười nở trên môi.
Đợi tới lúc Đức Giêsu đến, Ngài mới đem theo nụ cười, cả vào lúc loài người chủ
trương sám hối, để ngóng chờ.
Nụ cười vui, Chúa đem đến cho kẻ đợi chờ Ngài, nay thấy rất rõ nơi tâm
tình mừng kính Chúa Giáng Sinh, ở đời người. Tâm tình, thể hiện nơi cung cách
lẫn ý nghĩa của mỗi hành xử. Trước nhất, là lẵng hoa có lá cành của cây trạng
nguyên quấn vòng quanh 4 ngọn nến. Để thắp sáng suốt 4 tuần lễ mùa đợi chờ. Màu
xanh của lá, là mầu truyền thống có từ thời xưa ở Yuletide, xứ Xcăng-đi-na-vi.
Người Na-Uy rất thích mầu xanh, cả trên băng tuyết. Người Ái Nhĩ Lan
cũng làm thế, là để tỏ rõ một biểu tượng của lễ hội, dù người người đang ở vào
mùa băng giá. Trong khi đó, cây thông Noel lại có gốc nguồn từ sử hạnh của
thánh Bônifaxiô, ở bên Đức. Nến cháy ở lẵng hoa, lại xuất xứ từ Đức, vào thời
Luther, người khởi xướng đạo Thệ Phản. Chí ít, là tập tục của đêm ca hát nhạc
Giáng Sinh, rất linh đình như bài “Đêm
Thánh Vô Cùng”, “O Tannebaum”, cũng xuất xứ từ các nền văn hoá rất đa dạng.
Có khi còn kình chống nhau về chánh kiến, với thần học.
Tóm lại, lễ hội mừng ngày Chúa Giáng Hạ, rày diễn tả tình tự hài hoà,
bình an. Không cần biết người mừng lễ, có gốc nguồn từ đâu tới.
Truyện kể về Ông già tuyết mà mọi người ở trời Tây có thói quen gọi là
“Santa Claus”, là truyện tích kể về sử hạnh thánh Nicholas, một đấng bậc người
Hoà Lan nhưng lại có nguồn gốc phát xuất từ tập tục miền Nam nước Ý. Trong khi
đó, nai gạc tuần lộc chuyên chở quà giúp ông Già Tuyết phân phối lộc thánh lại
thuộc giống giòng chốn Nữu Ước, nhiều năm trước.
Tóm lại, mỗi khi mừng ngày hội Chúa Giáng Trần, đa phần người các nước
đều tổ chức giữa mùa Đông rất băng giá, đều là tập tục của lễ hội từ người
ngoài Đạo, chỉ muốn chuyện vui tươi, hiền hoà gửi đến hết mọi người. 25 tháng
Chạp, chưa hẳn là ngày Chúa chào đời. Tuy nhiên, ngày ấy vẫn đánh dấu một kỷ
niệm Giáo hội thời tiên khởi vẫn muốn chung vui ngày lễ mừng thần nông Satuya,
từng định vị ngày 17-19, rất tháng Chạp.
Tất cả mọi chi tiết dù có khác, vẫn chỉ muốn nói lên tính đa dạng ở văn
hoá dân con Đạo Chúa, suốt từ lâu. Đa dạng, nhưng không đa tạp, cả vào lúc
người Việt ở Nam Bán Cầu vẫn hát bài “Đêm Đông Lạnh Lẽo Chúa Sinh Ra Đời” của
Hùng Lân. Dù, những ngày ấy thời tiết nóng cháy đến 38 độ. Hát gì thì hát. Mừng
gì thì mừng. Ta vẫn cứ mừng bằng niềm tin ngày Con Thiên Chúa Giáng hạ làm
người, để ở với chúng dân. Rất hài hoà. Bình an.
Biết được thế, là nhờ các đoạn Tin Mừng được thánh Mát-thêu và Luca ghi
chép. Hai thánh sử đểu đã bỏ ra nguyên hai chương đầu của Sách để kể về Đức
Giêsu, thuở thiếu thời. Về trình thuật thời niên thiếu của Chúa, thánh Luca
viết nhiều hơn thánh Mát-thêu. Nhất thứ, là chi tiết/dữ liệu. Tuy nhiên, cả hai
thánh sử đều ghi chép theo văn phong/văn bản, rất khác biệt về tình tiết. Ý
niệm. Mặc dù thế, cốt lõi của trình thuật, vẫn giống nhau.
Trình thuật được hai thánh sử ghi lại, đều có kể về hạnh thánh Giuse và
Đức Maria. Dù, hai đấng đã đính hôn theo tập tục Do thái, nhưng các ngài lại
không sống chung. Cùng nhà. Thánh Giuse thuộc giống giòng hào kiệt, rất trâm anh.
Giòng Đavít. Còn Đức Maria, lại là thiếu nữ trắng trong, một lòng một dạ giữ
mình khiết tịnh. Chợt đến lúc, sứ thần thiên quốc hiện đến báo tin lành Mẹ sẽ
cưu mang và hạ sinh, Đấng Cứu Thế.
Rồi, đề nghị đặt tên Trẻ Bé, là
Giêsu. Và, Hài nhi Giêsu đà Giáng hạ ở thôn làng BétLêHem, xứ Đạo cùng cực
thuộc vùng Giuđêa, rất nổi tiếng. Kịp đến khi Ngài khôn lớn, Thiếu Niên Giêsu
mới trở về Nadarét thuộc đất miền Galilê, trở thành Giêsu Nadarét, như Kinh
Sách từng báo trước.
Truyện kể ngày Chúa Giáng Hạ, mang tính chất rất “người”, là để nói lên
đặc tính “có một không hai” Tình Chúa Thương, rất đặc biệt. Ngài thương yêu
loài người đến độ đã tặng ban cho ta, chính Người Con Duy Nhất của Ngài. Chính
đó là quà Giáng Sinh, thật chân tình. Chính đó, là quà quý giá, Ngài đem đến có
đính kèm sự Bình An/hài hoà cho muôn người. Ngài chính là sự Bình An, Hài Hoà
bằng xương thịt. Vì ngày xưa, loài người vẫn sử dụng tập tục Giáng Sinh để biểu
trưng tính Hài hoà/Bình an, rất chân chính.
Tin Mừng mùa Vọng, còn hàm ngụ một chi tiết khiến mọi người ngạc nhiên.
Đó là: vào các tuần trước đó, Tin Mừng từng đề cập đến ngày thế tận, có bạo
lực, khổ đau, âu sầu mà người người đều cảm nghiệm. Tiếp theo đó, các thánh sử
còn trích dẫn lời thánh Gioan Tẩy Giả, kêu gọi mọi người hãy về nơi vắng vẻ, để
sám hối/nguyện cầu, nơi hoang vắng. Tất cả, cốt ý làm nổi bật hình ảnh Đức
Giêsu, Đấng Mêsia Giáng hạ mà mọi người kỳ vọng.
Dù là bà con bàng tộc với Đức Giêsu, thánh Gioan vẫn chủ trương cuộc
sống nhiệm nhặt, nặng chất âm thầm, khắc khổ. Ăn, thì thánh nhân kêu gọi đoàn
người theo chân ngài hãy dùng thức ăn đặc biệt của sa mạc. Tức, gồm toàn cây
trái. Mật ngọt của đàn ong. Mặc, thì chỉ mặc vải áo giản đơn, rất bắt nắng.
Nóng bỏng. Và, lời thánh nhân khuyên răn, lại chuyên chú những cải tân. Sám
hối. Dọn lòng cho trống vắng, hầu đón rước Đức Chúa vào với đời mình. Thánh
nhân chủ trương khuyên bảo mọi người hãy đón rước Đấng Cứu Độ, trong tinh thần
nhiệm nhặt, giản đơn mà Cựu Ước từng đề cập.
Còn, Đức Giêsu, thì Ngài lại bảo: Thời đã đến. Thời đây, là Thời của An
Bình/Hài Hoà, rất đích thật. Và, muốn được Bình An/Hài Hoà Chúa hứa ban, dân
con mọi người hãy một lòng đổi thay cả tâm can, lẫn đầu óc. Thay và đổi, ngay
cả động thái mình quyết sống. Thay và đổi, để rồi sẽ bỏ lại đằng sau, mọi tranh
chấp. Rất bạo động. Thay và đổi, không chỉ trong phút chốc. Nhưng còn đổi và
thay, như Tin Mừng Ngài mang đến.
Tin Mừng Chúa đem đến, sẽ không còn như tin về ngày thế tận, rất đáng
sợ. Tin rất Mừng, Ngài chủ trương, chính là quà tặng Chúa đem đến với mọi
người. Chính là Bình An, Hài hoà mà trước đây chẳng ai đem đến. An Bình/Hài
hoà, không chỉ xảy đến, mỗi ngày vui. Dù, người người có gọi ngày ấy là lễ hội
Giáng Sinh hay linh đình ngày Ông Già Tuyết phát quà cho em bé. An Bình/hài
hoà, vẫn sẽ là và luôn là, quà đích thực Chúa gửi đến hết mọi người. Mỗi ngày,
và mọi ngày. Chí ít, là những người được Chúa đoái hoài. Thương mến.
Thành thử, vào với Tiệc Thánh ta tham dự ngày Đại Lễ, hãy chuyển đến hết
mọi người quà tặng Bình An/Hài Hoà Chúa vẫn ban. Để, người người không chỉ vui
chơi nhận lãnh thứ quà tặng hời hợt chóng qua, dù được bao bọc bằng sắc
mầu/hình thái gì đi nữa. Chuyển quà Chúa ban, còn để mọi người nhớ mà cảm tạ.
Cảm tạ Chúa, vì nay mình có thể sử dụng mọi hình thức biểu tượng, đặc trưng của
văn hoá đa dạng, từ ngàn xưa, như ảnh hình của Bình An và Ân Sủng.
Lm Kevin O’Shea, DCCT biên soạn
Mai Tá lược dịch_______________
No comments:
Post a Comment