Saturday 31 March 2018

“Rêu tần ngần, tuyết in phong”


Suy Tư Tin Mừng Chúa Phục Sinh năm B 01/4/2018

(Ga 20: 1-9)
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu."
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.       

Rêu tần ngần, tuyết in phong
“Sóng phơi trường mộng, từ trong dậy nguồn.”
(dẫn từ thơ Bùi Giáng)
Dậy nguồn từ trong, hẳn là lời thơ mà thi sĩ nhà ta ngâm nga chỉ một chốc! Dậy nguồn từ nỗi chết, là sự thật Chúa sống lại hằn in rõ ở trình thuật. Trình thuật Chúa “Dậy Nguồn” sống lại gồm các đặc trưng vẫn được lập đi lập lại ở Phúc Âm, như: “Galilê”, “viên đá”, “bắt đầu tin”, “và từ đó”

Galilê với tác giả Máccô: “Ngài sẽ đi trước các ông đến Galilê, ở đó các ông sẽ thấy Ngài.” (Mc16: 7)  
Còn với Mát-thêu, thì: “Ngài đi trước các ngươi đến Galilê. Ở đó các ngươi sẽ thấy Ngài.” (Mt 28:7)
Luca lại nói: “Ngài không có đây nhưng đã sống lại; hãy nhớ lời Ngài nói lúc còn ở Galilê.” (Lc 24:6)
Và Gioan:“Ta lên cùng Cha và cũng là Cha của các ngươi”. (Ga 20: 17).

Xem như thế, đi Galilê là đi và đến với Cha.
“Galilê” đây, không mang tính không gian/địa dư/nơi chốn, mà là biểu tượng rất nghĩa bóng. Galilê, có nghĩa là “đất lành” của người nghèo. Của những ai có cuộc sống đầy đặn. Tuy là như thế, nhưng cũng đừng đến nơi ấy, để rồi cứ ngồi đó mà chờ Chúa hiện hình, hoặc bàn tán Chúa sống lại, mà phải có “hành động” nào mang mục đích sống thực.

“Hành động” đây, là làm những gì?
Là, thực hiện điều Chúa làm ở đó. Là, lấy đi những gì gây chết chóc, trầm thống, đói khổ. Để, người người được an vui, lành thánh và hy vọng, ngõ hầu đưa họ đi dần vào Thứ Bẩy Thánh, để rồi tiến thẳng vào chốn “không-gian-cộng-thời-gian” đầy sự sống. Nói cách khác, hãy giúp nâng nhấc mọi người để họ có thể rời nỗi buồn rất chết chóc. Có làm thế, người người mới hiểu được thế nào là phục sinh. Thế nào là sự sống quang vinh. Và, có làm thế mới cảm nghiệm được sức mạnh Phục Sinh năng động ở trong ta, như thánh Phaolô từng căn dặn: điều cần thiết là ta biết Chúa và sức mạnh phục sinh của Ngài.

“Viên đá”, nói trong câu: “Ai là người vần viên đá lăn khỏi mồ Thày?” (Mc 16: 3) “Đá“ đây, nên hiểu là những “trở ngại” cản ngăn ta làm điều tốt đẹp cho đời mình. “Đá”, còn là thành viên gia đình. Là, thủ trưởng nơi sở làm. Là bạn bè, niềm đơn côi, tật bệnh; là thế gian, đầy những khủng hoảng. Là, đá tảng trên đó có ghi chữ “giả như”, giống hệt giòng chữ nguệch ngoạc trên tường, xoá nó đi bờ tường sẽ sạch đẹp. “Đá”, là người vẫn cứ quấy rầy, quậy phá khiến ta khó quyết tâm thực hiện dứt bỏ mọi khó khăn rất không đẹp.

Thần thoại Hy Lạp, có nhân vật Sisiphus dùng mỗi đôi bàn tay thôi cũng lăn được viên đá rất to cồng kềnh lên đỉnh đồi, để rồi chính “đá” lại lăn đè vào người ông. Thử nghĩ, “giả như” các nữ phụ hôm ấy lăn được “đá viên che mộ Thầy mình”, thì các bà sẽ thấy được những gì ở phía bên kia đá tảng có là thi hài của người chết cần xức dầu/tẩm liệm thêm cho kỹ? Đó là điều, khiến các bà nghĩ phải làm khi có người trợ giúp lăn đá mở cửa mồ cho Chúa; sau đó, nhờ người ấy lăn về chốn cũ.

Về “đá tảng còn lăn”, ám chỉ chính “cái chết” là “đá” thực thụ khả dĩ cản ngăn mọi người chúng ta. Cất bỏ “đá-tảng-sự-chết”, tức: tìm cách chối bỏ cái chết không nhân nhượng. Thật ra, ta vẫn muốn cất bỏ những gì gây phiền toái/chết chóc cứ lảng vảng ở quanh mình trong khi ta hiện hữu. Đó là lý do khiến ta cứ phải “đi” bác sĩ, nhờ y tá giúp hoặc trông cậy vào phương pháp vật lý trị liệu, tập tạ, đi bộ cho thật xa, kiểm tra sức khoẻ, bỏ hút thuốc, cữ uống rượu, vv... “Đá” đây, còn là kinh nghiệm bản thân về những hạn chế/sút giảm trong đời mình khiến ta hiểu lầm cuộc sống, nên vẫn muốn cái chết cứ chậm đến với ta.

Về “đá tảng vẫn cứ lăn”, là cá tính khó đổi của mọi người. Bởi, đá tảng hoặc đá vẫn lăn hiện diện ở đâu đó, chẳng phải để ta đổi dời, hoặc chuyển lăn. Tin Mừng Nhất Lãm đều nói đến “đá lăn”. Còn thánh Gioan lại vẫn viết: đá ấy được “lấy đi”. Tựu chung thì, có chuyển lăn hay được lấy đi, cũng chẳng có gì làm ta hãi sợ. Điều, khiến ta hãi sợ lại là những “đá và sỏi” nằm trong đầu/trong óc của mỗi người. Những đã tảng nằm im đó, cũng rất to, nên khó lòng mà rời lăn nó ra khỏi đầu óc con người.

“Bắt đầu tin”. Ngay khi ấy, mọi người đã thấy ‘sợ’. Sợ, vì nghĩ rằng có sự sống đâu đó ở ngoài đây, chốn này. “Bắt đầu tin”, là khởi đầu sống một cuộc sống không hãi sợ nỗi chết. Cuộc sống, không nỗi sợ và cũng không bao gồm chỉ một hạn chế. Cuộc sống ấy, không do ta thiết lập mà là quà tặng. Quà sự Sống, khiến ta kinh ngạc, hồ hởi. Bởi thế, cũng đừng nên kiếm tìm sự sống nơi cõi chết. Nhưng, hãy cứ sống và sống ngay tại đây, chốn này!

Người cứu hộ, bao giờ cũng hứa hẹn nhiều điều như thế. Thế gian, ngập tràn khốn khó để có được người cứu hộ như thế. Tuy nhiên, họ là người chỉ biết nói năng hoặc giùm giúp, nhưng không tặng sự sống có “dậy nguồn”. Đức Giêsu mới đích thực là Đấng Nhân Hiền duy nhất trao ban hết mọi sự. Ngài ban hết tất cả. Trao và ban, cả thân mình Ngài. Chính đó là Phục Sinh quang vinh cho mọi người.

Tin Mừng thánh Gioan, vẫn quan tâm đến “hừng đông” của niềm tin rất thực, nhờ đó khiến người người thêm phấn khởi. Khi viết lên những giòng chữ đầy vui mừng: “Bấy giờ môn đồ kia, người đã tới mộ trước tiên, cũng đi vào. Ông đã thấy, và đã tin.” (Ga 20: 8) Bản Hy Lạp không rõ ràng, dứt khoát với câu: “Ông đã thấy, và bắt đầu tin…”  Tức, ông chưa đạt niềm tin trọn vẹn cho đến khi Đức Chúa chợt đến vào xế hôm Chủ nhật Phục Sinh ấy và ban cho họ Thần Khí Ngài. Chính Thần Khí mới là Đấng khiến “đồ đệ tin một cách thực tình” vào Sự Sống.
    
“Và từ đó…” tức: từ đó về sau, đến với Galilê là để cất nhắc người nào đó khỏi nỗi chết. Để, ta hiểu rằng: dù sao đi nữa, cũng chẳng nên nói chỉ mỗi sự sống tốt đẹp, thôi. Nhưng hãy cứ tin vào sự sống. Sống cuộc sống đích thực. San sẻ cuộc sống thực, để rồi sức mạnh của phục sinh tràn đầy sẽ đổ dồn vào với niềm tin ta đang sống, ngõ hầu lấy đi mọi “đá tảng” cản ngăn sự sống rất đích thực. Và nâng nhấc mọi người để họ cũng sống đích thực như ta. Thế nên, hãy đem đến cho mọi người phục sinh đích thực vào trong cuộc sống có trỗi dậy, phấn khởi.

Thời trước, người người có truyền thống cổ mang tính chất cũng rất “Gioan” qua đó còn bàn luận: có thể, Giêsu Đức Chúa chưa hoàn toàn sống lại thật! Cũng có người lại cho rằng: Ngài sẽ còn trỗi dậy ngày một nhiều hơn, để rồi ngang qua động tác trỗi dậy, ta nâng nhấc người người khỏi tính chất rất chết chóc của họ. Có làm thế vào Tiệc Thánh, ta mới chứng minh được rằng Chúa đã sống lại thật. Có làm thế, người người mới không còn thắc mắc và tin chắc rằng Ngài vẫn trỗi dậy ngay trong gia đình, cộng đoàn mình đang sống. Sống rất thực, ở nơi này nhiều hơn nơi khác. Có làm thế, người người sẽ không tập trung vào việc so sánh, ganh đua, tị nạnh để chỉ chú trọng vào việc nâng nhấc hết mọi người.

Nhiều truyền thống trong Đạo vẫn cứ coi thời buổi hôm nay, bắt đầu từ chủ nhật Chúa Phục Sinh đến chủ nhật Chúa Thánh Thần Hiện đến vào ngày Ngũ Tuần, là thời điểm của Thần Khí mới Chúa phú ban, cũng rất đúng. Chay mùa kiêng khem và tuần lễ thánh xưa nay vẫn là mùa của tháng ngày cần “vượt qua”. Lễ Thánh Thần Ngự đến, mới là kỷ niệm tính hiệu năng của phục sinh, trỗi dậy. Có quan niệm như thế, rồi ra ta sẽ nguyện cầu Phục Sinh thể hiện đúng cách cứ đến mãi, với mọi người.
Trong tâm tình ấy, tưởng cũng nên ngâm tiếp lời thơ vừa trích dẫn, vẫn kéo dài:

“Rập rờn đầu liễu xanh buông,
Mùa trăng nước đẩy, xô buồn đi xa.
Trang hồng kim rải ra hoa,
Trổ bông mùa phượng, cũ đà hồ phai.”
(Bùi Giáng – Mùa Phượng cũ)

Phượng cũ, là những gì rất cũ và rất cổ với nhà thơ. Là, cuộc sống có thói tật và nỗi chết. “Xô buồn đi xa”, là xô đẩy cả nỗi chết rất buồn vào cõi hết, để “mùa phượng cũ”, sẽ “trổ bông” nếp sống cũ nay “đà hồ phai”. Hồ có phai và thay đổi, mới là đích điểm của Phục sinh mùa trỗi dậy, với mọi người. Ở đời.
            

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  
Mai Tá lược dịch.

Friday 16 March 2018

“Đây thi sĩ của đạo quân Thánh Giá”



Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá năm B 25/3/2018
Tin Mừng (Mc 11: 1-10)
Mấy ngày trước lễ Vượt Qua, Ðức Giêsu và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, gần làng Bết-pha-ghê và Bêtania, bên triền núi Ôliu. Bấy giờ, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây. Nếu có ai bảo: ‘Tại sao các anh làm như vậy?’, thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay.” Các ông ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. Mấy người đứng đó nói với các ông: “Các anh cởi con lừa ra làm gì vậy?” Hai ông trả lời như Ðức Giê-su đã dặn. Và họ để mặc các ông. Hai ông đem con lừa về cho Ðức Giê-su, lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Ðức Giê-su cỡi lên. Nhiều người cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Ðức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Ða-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!”
“Đây thi sĩ của đạo quân Thánh Giá”
“Nửa đêm nay vùng dậy để tung hô.”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Thi sĩ vùng dậy tung hô Chúa, suốt đêm và cả ngày dài. Tung hô, dấn bước theo Ngài ngang qua khổ ải, để rồi sẽ kết cuộc bằng nỗi chết, cũng quang vinh.
Trình thuật Lễ Lá, thánh Máccô tác giả ghi lại nét đặc thù về nỗi chết Chúa chấp nhận như một kết cục đời trần thế, rất vinh quang, sáng lạn. Chúa chết rõ ràng là thế, mà sao bạn đạo khác chánh kiến như giáo chủ Môhamét và hàng triệu tín đồ Hồi giáo lại cứ tin và bảo rằng kinh Koran từng quả quyết: Chúa không chết! mà chỉ là ai đó chết thay Ngài vào buổi tranh tối tranh sáng trên đồi vắng Calvariô, để Chúa đi mà không bị lộ.
Cùng một giọng điệu tương tự, các nhóm bí truyền này khác đã hợp với những người cứ chống lại sự thật mà Hôi thánh của ta gọi họ là “bè rối” thời hiện đại như Dan Brown và nhóm Da Vinci cứ nghĩ rằng: Chúa rời Giêrusalem đêm ấy rồi truyền cho đồ đệ chết thay Ngài để Ngài sống đời huyền bí ở nơi nào đó, khó tìm.
Lập luận này, chắc chắn sai sót. Sai và sót, là bởi họ cứ chối bỏ rằng: Chúa mà lại đi vào cõi chết như thế là không đúng. Chuyện này không thể xảy đến với Đấng Thiên Sai là Chúa và là người. Tuy nhiên, kinh Tin Kính nói rất rõ: Chúa chịu đóng đinh, Ngài chết cho thể xác, an táng ở mộ phần có đá tảng khuất che bao trùm, là Ngài bước vào phần sâu thẳm của sự chết rất thật và chịu khổ hình, trước mặt mọi người ở Giêrusalem.
            Truyền thống trong Đạo cho thấy có người không tin rằng Chúa chết theo kiểu thánh Máccô miêu tả. Vì đó là cái chết trơ trọi một mình như bao nhiêu triệu nạn nhân của bất công, bạo lực và khổ ải mà không ai có thể tưởng tượng hoặc muốn chứng giám. Ngài chết một cách thảm hại. Cái chết của Ngài là vết thương lớn đối với thị kiến cao cả về Đấng Thiên Sai. Chết như thế, không là cái chết đẹp dành cho Đấng Thiên Sai nay đi vào chốn “ngủ nghỉ” cuộc đời. Ngài chết như thế, là một thất bại và không tưởng và đời người cũng chẳng ai thích chết như thế. Chẳng ai chấp nhận để Chúa chết như vậy.
Phải chăng người người được mời đi vào hiệp thông với Đức Kitô nay đã chết? Hiệp thông với thực tại trần thế có nỗi chết như thế phải chăng là sự thật rất hiện thực mang thiên tính rất Kitô không?
Đức Giêsu cũng như thánh Phaolô không nói người người sẽ tồn tại muôn đời. Các Ngài cũng không bảo: mọi người rồi ra cũng như thế. Các Ngài lại cũng chẳng bảo: con người sống vĩnh cửu. Nhưng lại nói: mọi người đều chết và trỗi dậy theo cách khác biệt. Khác, nhưng không phải bảo tồn sự sống có xác thể để tồn tại mãi mãi. Sống có trỗi dậy, không là động tác cất bỏ sự chết. Mà là, ngang qua nỗi chết, Chúa tặng ban cho ta sự sống khác. Quà tặng này, ta chỉ có được khi hiệp thông với nỗi chết, như Chúa từng kinh qua.
Có một người có thể làm mẫu cho ta việc này, là viên bách quản người La Mã khi thấy Chúa tắt thở bèn nói ngay: “Đích thật Người này là Con Thiên Chúa.” (Mc 15: 39) Với người La Mã, lời này còn hơn cả một tuyên xưng đức tin trước đám đông quần chúng, mà là hành động bội phản, vì xưa nay mọi người vẫn coi Xêda là Con của Chúa. Chỉ cần nói như thế thôi, anh cũng có thể bị cách chức và đem đi hành hình trên thập tự. Thế nhưng, điều anh nói là đã dám nói, và anh cũng đã hiệp thông với sự chết Chúa từng chịu.
Mỗi khi có người làm động tác hệt như thế, thì người đời tìm ra được con người mới có hành động tương tự. Làm theo cung cách của Giao ước giữa Chúa và người phàm. Giữa con người với nhau. Đó là hình thức rất mới trong nỗ lực suy tôn/thờ phụng Chúa. Đức Giêsu Kitô đã mặc lấy xác phàm theo cung cách rất mới và mọi người chúng ta đều là thành phần của xác phàm rất trần tục.
Đi vào hiệp thông với sự chết, có nghĩa là: biết học cách sống thực. Sống, không tự bảo vệ mình, nhưng bằng động tác mở ra với thực tại đến với mình. Mở ra với những gì Chúa phú ban khi ta quyết định đi vào chốn đó. Làm thế, tức: sự sống cũng như nỗi sợ sệt sẽ đưa ta vào với lịch sử. Chính sự chết đã chết đi. Chứ không phải Chúa đã qua đi và không phải là Ngài đã không giữ lời.
F. Mauriac mô tả buổi đầu gặp gỡ trẻ bé người Do thái, tên là Elie Wiesel ở Auschwitz từng chứng kiến cảnh toàn bộ gia đình em, ngoại trừ người cha, đã lần lượt biến mất ở lò thiêu người tại trại tập trung mang tên này. Mấy ngày sau, bé em lại thấy cha mình cũng từ từ bước vào cõi chết rất chầm chậm bằng một cơn hấp hối khá kinh hoàng. Mauriac suy tư về hệ quả mà trẻ Wiesel từng có cảm nghiệm làm dân con Chúa chọn cũng từng sống cho Chúa, nên đã viết:

“Tôi không thể nào quên đêm ấy, đêm đầu ở trại, đã biến đời tôi thành đêm dài khổ ải.
Tôi không tài nào quên được làn sương nồng nặc khuôn mặt bé nhỏ của em từ từ biến dạng rồi mất đi trong làn khói đen chủi chũi dưới bầu trời xanh tươi, thinh lặng.
Tôi càng không thể nào quên được lửa ngọn bừng bừng đốt cháy niềm tin của tôi cả về sau, mãi mãi
Tôi cũng không quên được sự lặng thinh của đêm lặng lôi tôi ra khỏi ước vọng kéo dài để sống...
Tôi cũng không hề quên khoảnh khắc họ giết Chúa, giết cả hồn tôi, rồi biến giấc mơ tôi thành cát bụi..
Không quên được những điều như thế. Không thể và không thế!

Và F. Mauriac viết tiếp:
Với Elie Wiesel, tiếng khóc của Nietzche diễn tả thực tại xác phàm: “Chúa chết thật rồi!” Đấng, ông gọi là Chúa tình thương, lòng tử tế, dễ chịu; của Abraham, Isaac, Giacob chợt biến vào chốn vĩnh hằng, trong khói sương mịt mù nung đốt xác phàm trẻ bé, quyện với khói mù từ lò thiêu người chỉ để chứng tỏ một giống giòng “Arien” rất phân biệt, mà họ từng ham muốn nhất đời.”

Ngày ấy, ngày rùng rợn nhất trong tháng ngày nhờm tởm của bé em cứ phải chứng kiến cảnh trẻ bé đồng trang lứa đang bị treo cổ lại mang diện mạo thiên thần buồn. Từ đâu đó, có tiếng từ phía sau kêu lên rất lớn:“Chúa ơi! Ngài đâu rồi? Ngài ở đâu, sao không tới?” Trong tôi, như có lời đáp trả nghe rất rõ: “Ở đâu ư? Ngài ở đây, nơi này. Và Ngài cũng đang bị treo cổ hệt như con thôi!”        
Elie Wiesel cứ thế kể lại kinh nghiệm thương đau của bé tại buổi lễ trọng có người Do thái cùng về để chung lời chúc tụng Danh Chúa hiển vinh muôn đời. Và hôm ấy, bé lại không thể đến với đồng hương Do thái. Và về sau, Wiesel lại cũng viết:

”Ngày hôm ấy, vốn rất bực và rất nhục đến độ không chịu nổi, tôi, dù chỉ là thọ tạo phàm trần rất người, thế mà tôi cũng đã thách thức/chối bỏ Đấng thánh thiêng như đã mù loà và điếc đặc chẳng đoái hoài để tâm đến người đớn đau, sầu khổ. Hôm ấy, tôi chẳng tuyên xưng điều gì. Và, cũng không còn khả năng để than sầu, than khổ. Nhưng, đã thấy mình mạnh bạo hơn xưa, dám kết tội chính Thiên Chúa. Mở to mắt, tôi thấy mình quá đơn độc. Đơn độc, đến mức cùng cực và hoảng sợ khi thấy mình nay lẻ loi trước một thế giới không có Chúa ở bên, cũng chẳng có tính người nào hết. Chỉ thấy không tình thương và cũng chẳng có lòng xót thương, thấy ở đâu hết. Tất cả đều đã biến dạng. Tất cả, chỉ toàn tro bụi khắp quanh tôi. Thấy mình mạnh và bạo hơn Đấng Quyền Uy Dũng Mãnh mà tôi từng kết nối chặt chẽ với Ngài. Nay, lại thấy mình ở giữa đoàn người đang nguyện cầu, và lúc ấy thấy mình cứ trừng trừng nhìn mọi người như một kẻ xa lạ, không cảm xúc.”           

Và từ đó, F. Mauriac lại có giòng suy tư về những gì Elie Wiesel từng nói, để rồi ông viết như sau:

“Riêng tôi tuy vẫn tin Chúa là Tình Yêu.
Nhưng, trả lời sao đây với người trẻ đang tra vấn chính mình?
Trả lời sao đây, với ánh mắt tối đen khi bé nghĩ thiên thần buồn?
Trả lời thế nào khi bé thấy thiên thần buồn hiện trên mặt đám trẻ cùng tuổi bị treo cổ?      
Nói gì đây với bé em từng đớn đau, sầu khổ khi bé chứng kiến cảnh tượng ấy?
Nói gì đây, với anh em bé là người Do thái khác?
Nói gì, khi họ không khác gì bé, cũng chịu cảnh đóng đinh như Chúa của bé?
Nói gì, khi thập giá lại đã chinh phục cả thế gian.
Khẳng định làm sao, về đá tảng làm nền cho niềm tin thành đá góc tường cho kẻ tin  vào Chúa?
Thập giá con người, với tôi, có là chìa khoá để ta mở với huyền nhiệm tin yêu?
Tin yêu huyền nhiệm thời ấu thơ nay vụt mất, thì thế nào?
Kìa Sion nay trỗi dậy từ nhà xác, với lò thiêu
Do thái, người thời nay trỗi dậy từ xác người nằm đó, để cùng người sống lại,
có máu đào, nước mắt, vẫn cứ chảy. Nhiều ân huệ!
Nếu vĩnh cửu là cõi xa vời người đạt đến, thì lời cuối cho em và cho mọi người,
vẫn từ nơi Ngài. Do Ngài nói ra!”          
Đó là những gì, lẽ đáng, tôi phải nói với người em Do thái ấy. Nhưng tôi lại thôi, không làm thế, mà chỉ ôm bé vào lòng rồi khóc nức nở. Chỉ thế thôi…”

Trên đây là truyện kể từ cuốn sách có đề tựa rất nổi: “Đêm về, rồi Bình minh”, “Bình minh về từ đêm”, là giòng phụ đề trình thuật lại sự Thương Khó của Chúa do thánh Máccô kể về Lễ Lá, rất hôm nay.
Cùng với thánh nhân cảm nghiệm tâm tình Thương Khó của Chúa, nay ta ngâm tiếp lời thơ còn bỏ dở:

“Đây thi sĩ của đạo quân Thánh Giá, Nửa đêm nay vùng dậy để tung hô,
Để sớt cho cả xuân, xuân thiên hạ, Hương mến yêu là lộc của lời thơ.”
(Hàn Mặc Tử - Xuân Như Ý)

Xuân như ý, là xuân có đủ cả: đớn đau/sầu khồ, rồi trỗi dậy. Cùng Chúa Thơ, người người sẽ lại tung hô, san sớt “hương mến yêu” “lộc thánh” vẫn cứ trào và cứ dâng, cho mọi người. Ở đời.           

           Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –
Mai Tá lược dịch.

Monday 5 March 2018

“Anh lánh mùa xuân, nép cửa sầu,”



Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 4 mùa Chay năm B 11/3/2018
Tin Mừng (Ga 3: 14-21)
Khi ấy, Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng:
“Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa”.
“Anh lánh mùa xuân, nép cửa sầu,”
“Đêm nằm ghe gió, lạnh canh thâu.”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)
     Cửa sầu anh nép, cơn gió anh nghe suốt canh thâu, kể thì cũng lạnh bởi anh cứ sống theo khuôn phép âu sầu kiểu cổ xưa. Nhà Đạo mình, nay chỉ cho anh cung cách giản đơn để anh vui, với trình thuật.
     Trình thuật thánh sử nay ghi, là ghi về tin rất mừng Chúa Yêu Thương thế giới/thế gian, biết chừng nào. Chúa rất yêu trần thế, nhưng ta lại cứ hỏi: Chúa có chấp nhận lối sống thế trần của ta không? Và cung cách nguyện cầu kiểu người trần có làm Chúa bận tâm mà lắng nghe không? Đó chính là vấn đề mà Hội thánh nay cần đặt lại, chứ đừng noi theo cổ tục lập đi lập lại theo kiểu xưa cũ chẳng có gì đổi mới.
     Đan viện phụ Armand Vielleux nước Bỉ có lần từng nhận định:“Nhờ Công Đồng Vatican II, mà Hội thánh không còn lên án thế giới đương đại nữa. Từ khi ấy, thánh hội nay đã biết mở rộng lòng mình, ít nhất là trên nguyên tắc, để đối thoại với thế gian ở ngoài đời. Từ bấy đến nay, lại thấy Hội thánh cứ xử sự khá tiêu cực với trần thế. Đấy là cung cách của thánh hội coi thế trần như một thất bại, hết đường chữa. Bởi thế nên, đôi lúc Hội thánh cũng trở lại tác tạo Đạo Chúa theo cách thúc đẩy mọi người lánh xa thế giới bên ngoài để rồi phủi tay với trách nhiệm về những ảnh hưởng liên luỵ với con dân của mình. Nhiều vị giống như tôi, vẫn tin rằng: Hội thánh được bảo ban/ủy thác làm men sống trong đống bột là cốt để khuấy động/vực dậy thế giới. Có như thế, mới tạo nên không chỉ một giáo hội có canh tân mà cả xã hội cũng được đổi mới nữa. Xã hội, là hội của nhóm người sống ở thiên niên kỷ thứ ba, cũng rất mới.”
     Nhiều người cứ tưởng mình vẫn “kiếm tìm”Chúa bằng cách tạo lối sống lành-thánh thoát ảnh hưởng có từ thế giới trần tục, rất ở ngoài. Họ tưởng, có làm thế mới giúp cho thế giới đến gần Chúa hơn! Họ cũng tưởng, họ đã tìm Chúa, nhưng chưa gặp. Nên, cứ nghĩ rằng Chúa của “mình” đang ở đâu đó, cũng gần thôi. Nhưng lại không biết rằng, các đấng nhân-hiền thánh-thiện nay tỏ rõ: ta chẳng nên tìm Chúa theo kiểu cổ xưa. Bởi, chính Chúa đã gặp mọi người ngay trong đời mình mà người xưa vẫn gọi đó là thế giới gian trần.
     “Chúa của mình” cũng có cảm nghiệm sống, giống như ta. Ngài không kiếm tìm Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn có chức năng Cha trao phó, ngõ hầu giúp Ngài thực hiện thành công sứ vụ cứu độ. Kinh nghiệm dân con Chúa, cũng thế. Các thánh-nhân hiền-lành đều rõ: kiếm tìm Chúa, không là việc phải lẽ/đúng đắn để tả cho Chúa biết nơi mình sống, và hành xử. Mà, chính Chúa tìm gặp hết mọi người qua đời sống hằng ngày của họ. Và, Chúa vẫn đổ tràn trên con người mọi ơn lành qua những sự thể bé nhỏ ở đời. Lúc nào Ngài cũng hiện diện với mọi người, mà con người không biết, đấy thôi.
     Thời của Chúa, dân chúng sống theo cung cách mà người thời đó gọi là thế giới tốt lành, có nghi tiết phụng thờ,suy tôn, tế tự. Nhưng buồn thay, trọng tâm cuộc sống của người thời đó, chỉ quẩn quanh với sinh hoạt đọc kinh cầu nguyện, và tưởng thế là đủ. Với họ, cung cách phụng thờ Chúa qua tế lễ/cầu kinh quan trọng hơn lối sống đời thường, mà người người vẫn đang sống. Thực tế đời thường, người người không nhận ra là mình đang đi vào quan hệ mật thiết với Chúa. Cả người “ngoài luồng” hoặc sống bên ngoài Do thái, cũng thế. Tức: không khác người đi Đạo là mấy. Lâu nay ta không còn gọi họ là người “ngoại” hoặc “bên lương”/“ngoài luồng” nữa, nhưng coi họ như bạn đạo thân thương, vẫn nối kết.
     Bằng cách này cách khác, người “ngoài luồng” cũng biết tế lễ/phụng thờ đấng tối cao của mình, dù với người Đạo Chúa, các vị chỉ là ngẫu thần, thôi. Với Đức Giêsu, trọng tậm cuộc sống không là lòng đạo thánh thiện hoặc sinh hoạt phụng vụ với lễ lạy, kinh kệ, kiệu rước, chầu lượt vv.. cũng không bằng hành xử đúng đắn với người đời, ở đời. Với Chúa, dù Ngài có đến đền thánh cũng đâu để cử hành việc phụng thờ, hoặc cúng kiếng! Làm thế, Ngài làm nhiều lắm cũng chỉ hơn một lần trong đời. Và, Ngài có nguyện cầu theo nghĩa lâm râm đọc kinh cũng không nhiều, nếu so với số đông nhóm người Pharisêu hoặc Galilê thời ấy.
     Thời tiên khởi -ít là sau ngày đền thờ bị phá vào thập niên 70- tín hữu Đạo Chúa cũng giống Ngài, tức: hành xử khác lối sống đạo mà người La Mã thời ấy gọi là “vô thần”. Đức Giêsu thực sự khởi đầu cách mạng sống rất riêng, nhằm đưa dân con Ngài vào với cuộc sống rất Đạo. Sống riêng tư giữ Đạo, là sống rất mực với thế giới đời thường, vào mọi ngày. Chúa có thói quen tiếp cận Cha Ngài qua công việc bình thường, mỗi ngày. Và, Ngài yêu thích những chuyện như thế. Thánh Gioan nhận ra chuyện ấy, nên đã viết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến độ ban Con Một Ngài, để ai tin vào Con của Ngài sẽ không chết, nhưng sống muôn đời.” (Ga 3: 16). Và Cha làm thế thật.
     Chúa Cha, là Chúa của Đức Giêsu và của ta nữa. Ngài là Thiên-Chúa-Của-Niềm-Vui. Đây là danh xưng đích thật của Chúa. Danh xưng, khác mọi ngôn từ tán tụng ta vẫn nói. Chúa không toàn năng theo nghĩa con người hiểu. Ngài có thể làm mọi thứ, mọi sự. Đúng là Ngài làm mọi việc trong thương yêu, không vì ta là nguời tốt lành, xứng đáng. Ngài không ở nơi xa cách đến độ ta có gặp cũng phải chờ cho đến lúc chết, mới gặp được. Nhưng, Ngài đang ở đây. Nơi này. Cả sau vườn nhà của ta nữa. Ngài vui lòng ở với ta, cả vào tình huống ta tỏ ra bê tha, kỳ lạ mỗi ngày và mọi ngày, đến khi chết.
     Đó là cách sống “xoáy vào lòng đời” mà mọi người nhận ra được trong sống Đạo. Đó, là cung cách để ta có thể dứt bỏ quan niệm xưa/cổ về sống đời mà phần đông người Công giáo vẫn lầm lẫn. Cung cách sống Đạo thực, là thử thách lối sống của con dân đi Đạo. Sống Đạo, là tìm xem thứ tự ưu tiên đặt nơi đâu, hành xử thế nào trong đời mình. Cung cách ấy, có thể phá bỏ mục tiêu ta vẫn nhắm.
     Thông điệp Chúa gửi qua cách ấy, là:“hãy quẳng gánh lo đi!” mà vui sống đời thường, với mọi người. Cũng nên gọi đó là: niềm tin Nước Trời chụp được ta ngay từ ngoài và lấy đi mọi âu lo vẫn có nơi ta. Nơi mọi sự. Thật sự, Chúa hiện diện cả ở nơi sự việc không mang tính đạo hạnh. Bởi, niềm tin là lòng can đảm dám đồng thuận với những chuyện mà ta không cần biết việc ấy đòi ta phải có những gì. Làm gì.
     Sống Đạo thực, là cung cách đưa ta vào tình huống ra khỏi bối cảnh mà người người gọi là “chốn thánh thiêng”, vẫn đóng khung nó rồi đặt lên bàn để thờ. Kỳ thực, sống Đạo thực là quà tặng, là sự kinh ngạc, khám phá đến độ sửng sốt. Bởi lâu nay, ta được thừa tự bầu khí lễ mễ với nghi thức phụng tự hoặc lòng sốt sắng có từ thời Thập Tự Chinh. Nay, cũng nên chuyển dời nó vào với cuộc sống thường nhật, sống giản đơn như mọi người. Có sống thực tình như thế, dân con ở đời mới có được ý nghĩa của “tự do con cái Chúa”. Và qua đó, mới đạt được ý nghĩa của sự ứng đáp thân thương trong thế giới rộng lớn.
     Càng ngày ta càng nhận ra được rằng: hữu thể “người”, tự bản chất chứ không do lòng sốt sắng đọc kinh, nhưng là “đền thờ” Chúa Thánh Thần ngự. Bởi Chúa yêu thương người “thế gian” có cuộc sống bình dị thường nhật, nên Ngài muốn con dân Ngài sống giản đơn trong đời thường, giống mọi người.
     Vậy, ta làm gì với nghi thức phụng tự và biểu tượng lâu nay ta vẫn có, trong Đạo?
     Câu trả lời đúng nhất, là: cứ duy trì các sinh hoạt ấy, nhưng đừng đặt nặng ưu tiên hàng đầu, ở đời mình. Cứ giữ như thế, nhưng sống đời thường nhật cho thoải mái, vô tư chung vui hoà đồng với mọi người dù họ là người “ngoài Đạo”. Và, hãy để người đời biết là ta cũng sống giản đơn như họ, thôi.
     Tuy nhiên, điều trớ trêu, là: nhiều người vẫn không thoải mái với chuyện này. Họ cứ nghĩ: chuyện sống ở đời như mọi người tự nó đã không tốt, nên Chúa Mẹ không thể nào cùng sống với ta. Có người lại nghĩ rằng: lối sống giản đơn, bình thường ở đời, là kết quả của thứ triết lý hiện sinh, tục phàm lâu nay vẫn loại trừ Chúa. Thế nên, họ đặt ra hai qui cách: một, là đả phá lối sống không “lòng Đạo” (hiểu theo nghĩa đọc kinh cho nhiều, đi lễ rất thường) tức: lên án người khác đạo, khác chính kiến, tập tục. Hai, là tìm cách tránh xa những người “bê trễ” như thế.
     Không ai chối cãi sự thể là Chúa đang hiện hữu với mọi người. Cũng chẳng ai nghi ngờ Lời Chúa từng dạy đã và đang gây ảnh hưởng lên mọi sự, như ta thấy. Xác tín việc Chúa hiện diện trong đời, là chuyện bình thường đến độ chẳng ai cần lập lại chuyện đó, mới củng cố được niềm tin. Niềm tin của ta lâu nay vẫn hỗ trợ để cho tín hữu thấy được. Sự thực, con người nhận thức Chúa hiện diện và cùng sống với ta, là chuyện thường ngày, ở đời. Ai cũng hiểu, con người hiện hữu như một thực thể có tâm-linh ngự trị trong thân xác. Chỉ khi chết, ta mới hiểu rõ hơn rằng:hữu thể là bản thể hiện diện trong nếp sống đơn giản, khả thi.
     Đó không là lý tưởng, mà là sự thực hiện hữu. Vì, là lý tưởng nên chẳng có gì khó để đạt được chuyện đó. Nên, đừng nghĩ mình phải luyện tập ghê lắm mới đạt mục đích. Tốt hơn, đừng nên nghĩ mình có thể thực hiện được cả những việc không thể làm. Nhưng, cứ sống và cứ làm bất cứ gì “trong tầm tay” bằng tư thế xuôi theo giòng chảy mình có hoặc không có. Bởi, không phải lúc nào mình cũng suy nghĩ như bậc thánh hiền. Cố gắng lắm, cũng chỉ đi đến thất bại hoặc nghi ngờ mình có mắc lỗi, mới không làm nổi việc đạo, tức bị ám ảnh phải làm cho được chuyện không thể. Học giả Jean-Luc Marion có nói: “Hội thánh, nay thấm mệt nên không còn áp đặt lên xã hội ý niệm Thiên Chúa đang tồn tại, hiện hữu với mọi người ở đời.”
     Xã hội, nay nhờ bản năng vốn có, đã hội tụ những người biết nhận thức và tin tưởng nhau để diễn bày xác tín chung của họ. Đó, là “đạo cởi mở” đi vào lòng người. Ít nhiều, ta vẫn cần lòng Đạo để thích nghi với cuộc sống. Đạo giáo, thật rất tốt cho ta. Nhưng, không thể bảo: Đạo là điều tốt cho người khác, bởi mọi người chúng ta đều khác biệt, trong nếp sống.
     Trong cuộc sống, Thiên-Chúa-Của-Niềm-Vui đang tỏ lộ sự vui mừng nơi cuộc sống mọi người để nói cho ta biết: sống giản đơn mới cần thiết.
     Cảm nhận điều này, tưởng cũng nên ngâm tiếp lời thơ vang còn để ngỏ:

                        “Gặp nhau, nắm chặt tay lần cuối,
                        Anh khép hàng mi, chẳng nguyện cầu.”
                        (Đinh Hùng – Cặp Mắt Ngày Xưa)

     Nắm chặt tay khi gặp gỡ, nhà thơ nay nắm rất chặt; rồi sẽ khép hàng mi mà thưởng thức. Tức, niềm yêu thương Chúa phú ban mà chẳng cần nguyện cầu, kinh kệ suốt năm canh mùa sám hối, rất chay tịnh.
            Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –
Mai Tá lược dịch.