Sunday 20 September 2020

Suy niệm Chúa Nhật thứ 26 thường niên năm A

 

“Khi ấy Đức Giêsu nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho." Nó đáp:"Con không muốn đâu!" Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp:"Thưa ngài, con đây!" nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?"Họ trả lời:"Người thứ nhất." Đức Giêsu nói với họ:"Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy."(Mt 21: 28-32)

“Ở cũng bâng khuâng, đi chẳng đành,”

“đêm trời, sao cũ sáng long lanh.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Bâng khuâng đi chẳng đành, nên người đời có ra đi nhưng miệng mồm nào đã nói. Đêm trời sáng long lanh, nên đời người dù có hứa, nhưng chân mình rày chẳng buớc. Chẳng bước đi, dù miệng mình vẫn cứ nói. Nói và làm, trình thuật thánh sử viết hôm nay.

Trình thuật thánh Mát-thêu nay kể về dụ ngôn hai người con có những lời lẽ và lập trường thực hiện rất khác biệt. Cả hai hành xử kiểu đối nghịch. Người con đầu nói mình sẽ không làm điều cha muốn, nhưng cuối cùng vẫn thực hiện. Còn người kia, tuy nói làm nhưng lại không thực hiện lời mình nói. Tức, một người những nói và nói, nhưng không làm. Còn người kia, vẫn làm mà không cần nói. Dụ ngôn đây cho thấy: chính hành động nói nhiều hơn lời nói, ngoài cửa miệng.

Thời của Chúa, dụ ngôn được dùng như huấn dụ để khen ngợi những người hành động thiết thực hơn là nói. Bằng dụ ngôn này, Chúa bênh vực đám người bị khích bác, chê bai như đám đĩ điếm, dân thu thuế bệ rạc hơn giới thượng lưu, Pharisêu, ký lục chỉ nói và nói chứ chẳng làm gì để đổi thay con người mình. Thời của thánh Mát-thêu sau đó, dụ ngôn còn được dùng để đề cao người ngoại đạo hơn một số người Do thái cứ tự hào mình chuyên chăm đạo hạnh. Thế kỷ 20 lại dùng dụ ngôn hôm nay nhằm nâng đỡ đám người nghiện ngập dám làm sửa đổi chính mình hơn những người chỉ những nói và nói, khiến người khác bị khùng điên.

Áp dụng vào nhà Đạo, thấy dân con Đạo mình nhiều lúc có cả hai. Tức, nhiều khi ta những nói và nói, mà không làm. Có những lúc, ta vẫn làm mà chẳng nói, lấy một lời. Điều này làm ta nhớ về nhân vật trong phim dài nhiều tập có đầu đề “Cha Phó Xứ Đạo Dibley” luôn bắt đầu câu nói của ngài bằng những tiếng “Không! không! và không!” để rồi sau đó kết thúc bằng chữ “Có”. Có làm thực. Có hợp tác. Và đôi lúc nghĩ lại thấy mình từng nói “Có! có! Nhất định sẽ làm”, nhưng cuối cùng vẫn thành: Không! Không làm. Và cũng chẳng làm điều mình từng nói từng hứa, giống nhiều người trong ta.

Đi vào thực tế, giống truyện kể về cuối buổi lễ, các vị chủ tế có thói quen đứng ở cuối nhà thờ nói năng chào hỏi hết mọi người. Có lần, vị linh mục hỏi một giáo dân: tuần sau có đi lễ không đó? Rất nhiều người cứ trơn tru trả lời: “Dạ thưa cha, có chứ!” Thưa thì thưa “có”, nhưng các tuần sau đó lại khó mà thấy mặt vì nhiều lý do. Chính đó, là hiện trạng của người đi Đạo ở trời Tây, hôm nay. Hôm nay đây, có thể cũng có người lúc đầu tình thật không dám nói, nhưng sau đó suy đi nghĩ lại, vẫn cứ đến. Có người coi đây là chuyện linh mục không nên hỏi, vì ai nào dám thưa.

Nghiên cứu khảo sát hôm nay nhiều khi cho thấy: thế hệ trẻ hôm nay, và cả người cao niên cũng thế, lại cứ tính chuyện lời lãi mỗi khi được hỏi, ở nhà thờ hay ngoài ngõ, về bất cứ chuyện gì cần lấy ý kiến. Nói chung, nhiều người chỉ muốn dính dự vào các cuộc khảo sát với phỏng vấn khi biết mình chắc chắn có được lợi lộc, nếu trả lời. Tức là, họ chỉ muốn làm người dưng, trên trời rơi xuống. Chẳng muốn dính vào chuyện gì, dù thuộc vấn đề trong Đạo. Quần chúng hôm nay ra như lạc lõng ở đâu đó. Chẳng muốn ai ngó ngàng hỏi han mình điều gì, dù là ý kiến riêng tư. Kín đáo. Hoặc ép buộc. Khi xưa, ở phương Tây, các linh mục còn có thói quen đến từng nhà thăm viếng, hỏi han về cuộc sống của mỗi người. Ngày nay, làm thế tức vi phạm đời tư, rất nguy hiểm và dễ bị ra toà.

Nhiều năm về trước, mỗi khi có đề tài cần hỏi han góp ý hay tranh luận ở giáo xứ, còn có người chủ trương phóng khoáng. Bảo thủ. Hoặc trung lập. Ngày hôm nay, lại đã thấy những người như thế đi đâu mất. Hoặc, họ còn đó nhưng chẳng thiết tha gì chuyện bàn luận hay tranh đấu cho sự sống còn của Hội thánh. Nói chung, người đạo hạnh hôm nay không còn muốn dính dự vào chuyện chung của Hội thánh. Nhiều vị vẫn lành thánh, chuyên chăm chuyện lễ lạy, đạo hạnh. Nhưng không còn thiết tha chuyện tham gia nhóm hội đoàn thể có sinh hoạt tập thể, năng nổ tích cực. Mà chỉ muốn rút vào vỏ sò, sống riêng rẽ, cho khoẻ.

Nhiều người nhận ra rằng: thế giới nhà đạo họ đang sống nay khác trước rất nhiều. Khác nhiều thế giới của người phàm thực tế luôn trong sáng. Đầy dẫy thông tin. Đủ mọi chọn lựa. Nên, họ vẫn hết mình với mọi người. Nơi sở làm, ngừời người đều hăng say trách nhiệm. Vẫn cứ làm, vì chuyện chung. Nhưng trong Hội thánh, nhiều người đã bắt đầu ít nói. Không cà kê như trước. Dù, chuyện hội đoàn. Thế nên, khi hỏi:

Anh/chị tính sao? Có định tham dự chầu Thánh Thể thứ sáu này chứ?

Câu trả lời thường là:

“Không dám đâu! Tụi này bận lắm. Chẳng kiếm đâu ra giờ, để đi chầu!”

Nếu hỏi:

“Anh/chị tính sao? Có định tham gia biểu tình phản đối đôi ba chuyện chính phủ làm không?”

Câu trả lời, chắc cũng thế. Giống như người hành tinh vừa chợt ghé bến. Không chuyện trò, cũng không trao đổi. Chẳng bước đi về nhiều phía.

Dụ ngôn hôm nay, câu Chúa hỏi cũng tựa như thế: “Các ông nghĩ sao?” Hỏi như thế, không có nghĩa Chúa yêu cầu ta bắt chước những người chỉ biết nói chứ không làm, hoặc chỉ làm chứ không nói. Chúa không có ý khen ngợi hai lớp người nói ở trên. Ngài cũng chẳng giải thích sao Ngài lại không làm thế. Hoặc, vẫn làm như thế. Ngài chẳng nói hoặc có nói, bất cứ thứ gì. Ngài cũng không đi vào chi tiết để cho biết tại sao Ngài có lập trường như vậy. Dù, lập trường đó có là bê trễ, biếng nhác. Dù, đó có là kế hoạch, hoặc cảnh tình nào đó khó đoán. Dù, đó là chuyện đáng quên đi. Hoặc, chẳng lý gì về công kia việc nọ, cần công chúng tôn trọng. Điều Ngài hỏi chỉ là: “Các ông nghĩ sao?”

Liên tưởng chuyện này, có thể ta sẽ nghĩ mình đang đi vào loại hình nào đó của Hội thánh, vào thời buổi rất khác trong lịch sử. Một Hội thánh từng đòi rất ít ở dân con trong Đạo. Đòi và hỏi, về thời gian và thiện chí. Một Hội thánh không đòi những gì là ngoại lệ, nơi con người. Một thánh hội từng học hỏi cung cách biết tôn kính hết mọi người. Tôn và kính, chuyện riêng tư của dân con nhà Đạo. Học hỏi và trân trọng, việc phục vụ họ hơn việc sắp xếp để họ phục vụ Hội thánh, mà thôi.

Phục vụ dân con, còn có nghĩa: không dùng bạo động để dính dự cuộc sống đích thực của dân con. Phục vụ dân con, còn có nghĩa: tôn trọng phẩm cách tư riêng của mỗi người. Chính đó là nền tảng của việc yêu thương lẫn nhau. Nền và tảng, của việc trở nên cộng đoàn dân con sống thân thương như thế. Nền và tảng, để dân con sống, với lập trường hăng say đi đến mà nhận lãnh Thánh Thể Tình Yêu đích thật, ngày Chúa Nhật. Đó là những người con đang sống rất khác biệt. Sống rất đẹp, ở thế giới cuộc đời, cũng rất thực. Một đời người, luôn tham gia giùm giúp rất đắc lực.

Bởi thế nên, lời Chúa ở dụ ngôn hôm nay với câu hỏi: “Các ông nghĩ sao?” sẽ là lời nhắc nhở về động thái ta phải có trong đời, với người đời. Dù, người đó có là bạn đạo hay bạn đời, cũng như thế.

Trong cảm nhận tình Ngài thương ta qua câu hỏi ấy, cũng nên ngâm lại lời thơ trên, để còn nhớ:

“Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,

Đời dài, mới đến nửa sầu thương.

Một đêm trở bước cho lòng nghĩ,

Sao biếc rơi tàn mộng phấn hương.”

(Đinh Hùng – Đêm Khuya Trờ Bước)

 

Trở bước hay cất bước, để rồi đi. Đi rồi, sẽ nhớ lời Thầy dặn. Dù đời mình ra sao đi nữa, vẫn cứ bước. Cứ ra đi rao truyền lời Thầy vẫn hỏi và vẫn răn dạy. Để rồi, mọi người tin vào Thầy. Ở đây. Bây giờ.

 

Lm Kevin O’Shea biên soạn

Mai Tá lược dịch ________

Thursday 17 September 2020

Suy niệm Tin Mừng CN 25 Thường niên năm A 20/9/2020

 

"Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng." Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?" Mt 20: 1-6

 

“Cùng rủ nhau về góp một thành hai,”

“Những bưóc chân người góp đi làm đến.”

(dẫn từ thơ Nguyên Sa)

 

Rủ nhau về góp sức, góp cả “những bước chân người đến”để cùng làm, là tình huống vẫn thấy có, ở đời thường. Tuy cùng làm, nhưng mỗi người lại hưởng lương tiền khác biệt, đó mới là tình huống bất ưng của công nhân thợ thuyền được thánh sử kể lại ở trình thuật, rất hôm nay.

Trình thuật nay kể, là kể về dụ ngôn có tình tiết/lớp lang rất đời thường, ở mọi thời. Một thời, có đám công nhân càm ràm về công bằng với công lý mà người chủ thực hiện. Người chủ ở đây, quyết hiện thực đường lối chi trả rất khác lạ của riêng ông. Vào cuối ngày, ông gọi những người đến làm việc vào giờ chót và cho họ trọn lương hướng của nguyên ngày. Đám thợ này, không phản đối đã đành và mừng khen chủ mình nhân hiền, rộng lượng. Họlẳng lặng chấp nhận. Còn, đám thợ làm nguyên ngày cũng chỉ nhận bấy nhiêu thôi. Bởi thế nên, đó mới là duyên do ta nghe có tiếng phản đối đường lối xử sự khá bất công của người chủ.

Cứ tưởng tượng tình huống trong đó có người đứng suốt ngày ở đầu đường để tìm việc. Hoặc, những người cứ lân la nơi phòng tuyển dụng hoặc cơ sở từ thiện hòng được giúp đỡ, nên nếu có ai gọi tên mình vào giờ phút chót, cũng rất cám ơn. Thế nên, mấy người này thấy mình hạnh phúc hơn bao giờ hết. Bàn cãi chi cho nhiều, ai cũng thấy là những người lâu nay để mấtđi niềm hy vọng, nay được gọi đến cho việc làm, lại được trả lương hậu hĩnh, thì quả là không hạnh phúc nào lớn hơn thế.

Hãy liên tưởng đến trường hợp khác, trong đó có người thợ suốt ngày đổ mồ hôi sôi nước mắt, sẵn sàng chấp nhận đồng lương ít ỏi để sống qua ngày. Và người đó còn phải lo cho gia đình nheo nhócđang trông chờ mình về. Thợ như thế, hay tính toán giờ giấc, giá cả cũng như loại hình lao tác mình có thể làm. Họ suy tính công việc có thể thương lượng được với chủ, để tiền mang về đủ nuôi sống nhiều miệng ăn. Họ làm việc có hợp đồng, luật lệ công minh như thường thấy ở nhiều nơi.

Nay, hãy liên tưởng đến người kiếmđồng lương có giao kèo/thoả thuận hẳn hòi, nhưng không tính đến khoản phụ trội, tưởng thưởng hoặc phụ thu hầu thêm mắm muối cho bữa cơm hằng ngày. Nhưng, những người này vẫn trông chờ những quà tặng không tên phụ vào ngân sách gia đình như:đồng lương tăng vì vật giá, lạm phát. Tiền mất giá. Không có các khoản này, người thợ sẽ không mấy hài lòng, dù tiền thưởng không hẳn là quà ngẫu nhiên, do người chủ rộng tay độ lượng.

Cũng nên liên tưởng đến giới thợ nào thấy mình chẳng bao giờ được hưởng những thứ đó, nên vẫn lảng vảng quanh phòng tuyển dụng, hoặc chốn nhà thờ. Những người này, sẽ hiểu công bằng/chính trực theo lẽ tự nhiên. Những điều, những lẽ ít thấy trong cõi đời. Thế nên, thái độcủa họ là thái độ của người thợ làm việc theo cách tiêu cực, nghĩa là: chỉ làm theo mức tối thiểu, chỉ bỏ vào đó đủ sức lao động của mình, thôi. Hoặc, những người suốt ngày cứ chống cằm lên bàn, khi thấy không có ai dò xét, để ý. Vì họ cứ nghĩ: mình dại gì mà làm cho lắm, chỉ lợi cho chủ, thôi.

Những liên tưởng ở trên, không chỉ xảy ra nơi sở làm hoặc công trường lao động, mà thôi. Nhưng nó vẫn xảy đến cả trong Hội thánh nữa. Xưa nay, nhiều người đi Đạo vẫn ao ước có được nhiều quyền, nhiều tiền và nhiều qui chế dễ thở để được hưởng thụ, nhiều hơn nữa. Với hàng giáo sĩ, thì nhiều vị phục vụ nhiều năm trong âm thầm/tăm tối, nay muốn về giáo xứ/họ đạo sung túc, hoặc đông đúc bổn đạo cho bõ công ngày tháng chôn vùi đời mình trong bóng tối. Nên, hễ thấy thế hệ trẻ mới ra trường lại có được chỗ tốt thơm, mới đem lòng căm tức và nhìn xuống đám trẻ bằng đầu mũi.

Với hàng ngũ giáo dân, có người lại chỉ muốn có chân trong hội đồng giáo xứ/mục vụ, để ưu tiên hưởng được nhiều thứ. Là thành viên ca đoàn, có người chỉ thích hát những lễ nào đông người dự. Hoặc, hát vào các giờ lễ thích hợp giờ giấc của mình thôi. Những người có kinh nghiệm mục vụ trong giáo xứ/giáo đoàn, thấy mình tài giỏi hơn người mà chẳng bao giờ được giao phó công việc tốt. Trong khi đó, những người được điều động từ nơi khác đến chưa từng có lấy kinh nghiệm lao tác/hục vụ, lại được giao phó những công việc khó,đòi nhiều kinh nghiệm, thấy cũng lạ.

Đời sống thiêng liêng, cũng thế.Nhiều vị ngỡ rằng chỉ mỗi mình là người được Chúa cho lên thiên đàng thẳng cánh. Những người như thế, những tưởng rằng chỉ mình họ, vốn nhiều năm chuyên chăm làm điều tốt, nên dễ bất bình khi thấy mình không được ưu đãi hơn người khác, nên nghĩ rằng Chúa cũng thiên vị, khi Ngài ban ơn lành cho kẻ xấu, tức cho cả những người chẳng bao giờ làm điều tốt lành hết. Thế nên, nhiều vị lại hay ganh tương/tị nạnh với kẻ biếng nhác chẳng lo chuyện đạo hạnh, mà vẫn được Hội thánh trọng dụng, bởi vì họ biết hoán cải, vào cuối đời.

Dụ ngôn hôm nay khuyên ta nên thayđổi não trạng vẫn có xưa nay. Dụ ngôn thử thách ta cởi bỏ những động thái/tưtưởng nào không cần thiết cho Nước Trời. Thử và thách, chuyển đảo mọi giá trị, do ta đặt ra.

Nơi thế giới của những người chỉ tính chuyện làm ăn và với các thánh hội chỉ những lo toan chuyện làm ăn/ăn làm, không bận tâm gì chuyện thiêng liêng/đạo đức của dân con đi Đạo, cũng như thế. Tức, cũng suy tính về những gì hoặc những việc không có Chúa dính dự, ngự trị. Trường hợpấy, Chúa chẳng khi nào lập toà hoá giải, cũng không có toà kháng án, hoặc văn phòng công lý/khiếu kiện, để mình xin.

Khi nghĩ rằng Chúa ban ơn lành cho hết mọi người, ai cũng hiểu Ngài ban theo kiểu rủi may, giống xổ số. Cứ nghĩ rằng, có thể là ân huệ mình nhận được chắc cũng ít, hoặc rất kém. Bởi, họ lại nghĩ:Chúa đã rộng tay ban phát cho nhiều người, thì còn đâu mà cho mình. Thật ra, ân huệ Chúa ban vẫn dư dật, tràn đầy. Dư và đầy, đến độ ai cũng có phần. Chẳng ai là người thua thiệt, tủi phận hết.

Ân huệ Chúa ban là điều ta có được ngoài mức tưởng tượng, đợi trông. Rất nhưng-không. Chúa không nợ nần gì ai. Và, ta cũng chẳng có công gì để đáng được nhận nhiều hơn người khác. Lâu nay ta nhận ân huệ dồi dào, vì Chúa thương yêu hết mọi người. Ngài yêu thương vô điều kiện. Không bớt xét. Thế nên, tất cả mọi người trước sau gì cũng được. Tất cả đều là ân huệ. Tất cả đều được ơn.

Đọc dụ ngôn hôm nay, nhiều người thường hiểu vườn nho mà thánh sử đề cập ở trình thuật, chỉ là nước Do thái hoặc thánh hội rất Công giáo. Người làm vườn, là kẻ được mời đến chốn thánh thiêng, các văn phòng hoặc thánh bộ. Thật ra, không phải thế. Chúa đâu cần thợ ở vườn nho. Ngài cũng không cần công nhân lao động ở mọi chốn. Điều Ngài muốn và cần, là mọi người được mời đến để Ngài tặng ban ơn lành, cách nhưng-không. Để rồi, ta nhắn nhủ mọi người hãy trao cho nhau tình thương yêu ân huệ ấy. Chí ít, những người đang cần được ta thương yêu.

Đó là sứ mệnh phục vụ. Đó, không là món hời dễ ăn. Nhưng, là tương quan hai chiều. Và ta được mời đến để phục vụ.Phục vụ, ở nơi ta đang sống hoặc ở chốn miền ta hoạt động rất lao lực. Bất kểta là ai. Bởi cuối cùng, rồi ra người được mời cũng sẽ ngạc nhiên/thích thú được ban và nhận ơn như thế.

Trong thời gian đợi chờ Chúa ban ơn, ta hãy trở về với công việc liên quan đến mỗi người, và mọi người. Chúa vẫn đểtâm chăm sóc đến ta khi ta kết thúc một ngày lao động đường dài. Ngài chẳng kỳthị ai, hoặc bất công với ai trong lao động. Ngài là Đấng Nhân Hiền Độ Lượng, luôn rộng ban ơn lành cho hết mọi người. Chắc chắn ta sẽ nhận dù không là những gì mìnhđáng hưởng vì công của mình, nhưng nhận rất nhiều. Nhiều hơn cả những điều ta dự đoán.

Trong cảm nhận tình thương ân huệ Chúa ban, cũng nên ngâm lại lời thơ còn dang dở:

 

“Chỉ những miệng cười góp lạ thành quen.

Góp những giọng hò làm trống ngũ liên.

Góp những bàn tay dựng thành đại hội,

Cánh tay chắp cánh tay cho dài thêm nửa với.”

(Nguyên Sa – Bài Hát Cửu Long)

 

Góp sức hay góp giọng, thành đại hội. Gạo quanh nồi, góp lại thành bữa cơm chung. Để sáng ngày làm sông làm biển. Thứ biển sông, mênh mông tình Chúa vẫn ban ơn cho hết mọi người. Ở đời.

 

Lm Kevin O’Shea DCCT biên soạn

Mai Tá lược dịch

 

Wednesday 2 September 2020

Suy niệm Chúa Nhật thứ 24 thường niên năm A 13/9/2020


“Anh đã thoát hồn anh, ngoài xác thịt,”

“để chập chờn, trong ánh sáng mông lung.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

             Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng:

-Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?"

           Đức Giêsu đáp:

        -Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy."

Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy:

      -Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết. Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo:

       -Trả nợ cho tao!

Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ:

      -Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh.

Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo:

      -Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?

      Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình." (Mt 18: 21-35)

Rất có thể, vì “anh đã thoát hồn mình ngoài xác thịt” nên không còn “chập chờn trong ánh sáng mông lung” của thứ tha. Của cuộc sống an hoà, như thánh sử đề cập ở trình thuật.

Điều mà thánh sử ghi ở trình thuật hôm nay, là nguyên tắc làm nền cho cuộc sống hài hòa của cộng đoàn dân Chúa. Nguyên tắc này, vẫn song hành với nguyên tắc thứ nhất ghi ở đầu chương 18: với cộng đoàn dân Chúa, chẳng ai bị bỏ quên, hoặc nên hư mất.

Thêm vào đó, ở câu 15, thánh sử cũng ghi lại lời Chúa dặn dò:

“Nếu anh em ngươi trót phạm tội,..” là để người nghe biết đường mà xử sự cho đúng cách. Đây, lời dặn dò nghe hơi lạ, nhưng rất thực. Thực, là bởi: bằng vào sự khôn ngoan và kinh nghiệm bản thân, thánh Mátthêu nhận ra rằng: chữ “nếu” ở trước câu “anh em ngươi làm điều sai trái” mà lại đặt nơi người anh/người chị cùng nhà, có nghĩa là chuyện “làm điều sai trái” ít khi thấy nơi quý vị ấy.

Đằng này, Chúa chỉ bảo: khi họ làm điều gì sai trái,..”, tức có nghĩa: các vị này vẫn thường hay làm vậy. Và vì thế, hãy tha thứ cho họ. Tha, theo qui cách mặt-đối-mặt. Từng nhóm nhỏ. Hoặc, cho phép các vị về quê sáu tháng, rồi thì mọi sự cũng sẽ qua mau. Và, tha thứ là cách giản dị nhất, ta có thể thực hiện, để giải quyết mọi khúc mắc.

Hãy thử nghĩ về khung cảnh gia đình trong đó có bé em làm điều gì sai quấy, thì thoạt đầu, người lớn sẽ rối tung khi biết trẻ bé thế mà dám quậy. Nhưng chỉ ít phút sau, mọi việc đều trầm lắng và mọi người sẽ thứ tha, yêu thương bé nhiều hơn trước. Nhưng nếu tình trạng “rối tung” kéo dài lâu hơn thế, thì bé sẽ nhận ra đây là trò chơi đầy thích thú, nghĩa là: bé cứ làm sai, để cả nhà chỉ rối lên một lúc, rồi sau đó bé sẽ được yêu thương hơn. Và khi gia đình biết là bé cố tình chơi trò chơi này để mọi người chú ý đến mình, thì trò chơi ấy trở thành một vận động để gia đình được gắn bó hơn.

Ý của thánh Mátthêu muốn nói: tha thứ không là chuyện gay go khiến mọi người phải suy tính/đắn đo, nhưng chỉ đơn giản như “trò chơi“ của con trẻ. Trò chơi trẻ, là cung cách mà tình thương gia đình dành cho mình từ lâu, cốt là để gợi sự chú ý của mọi người, thôi. Đây là nền tảng thực hiện nghi thức hoá giải, mà xưa nay hội thánh có thói quen gọi đó là xưng/giải. Tức, tha thứ mọi sơ xuất, lỗi lầm, vẫn rất tội.

Trên bình diện mục vụ, sự việc này cho thấy tha thứ là động tác giản đơn, cần làm. Chứ, chẳng có mục đích làm ầm ĩ lớn chuyện “xưng/giải” như Giáo hội lâu nay vẫn làm. Ầm ĩ/lớn chuyện, đến độ đã phải nghĩ ra ba hình thức “xưng/giải”, rất khác biệt. Ầm ĩ, đến độ quên rằng Chúa đã tha thứ cho tội phạm ngay trước khi giáo hội ta đặt ra 3 nghi thức cầu kỳ ấy.

Ở câu 21, thánh sử đặt nơi miệng thánh Phêrô thêm một đối kháng như thánh cả vẫn thường làm, vào dạo trước. Thánh Phêrô là người khá bốc đồng, thuờng hiểu sai nhiều sự việc, nên mới hỏi:

-Thưa Thầy, nếu anh em có lỗi với tôi,

thì tôi phải tha thứ bao nhiêu lần, phải 7 lần không?”

Thời buổi này, quần thần nào mà lại hỏi lãnh đạo mình những câu như thế, khác nào thách thức chủ trương “không nhân nhượng”, của vị ấy.

Câu Chúa nói: “Này anh Phêrô. Không chỉ 7 lần, mà là 77 lần 7.” Con số 77 ở đây, mang nặng một ám chỉ đặc biệt. Đức Giêsu không cố ý qua mặt thánh Phêrô. Ngài chẳng muốn giới hạn việc thứ tha gì hết. Chẳng qua là, ở Kinh thánh, con số 70 hoặc số 7 đều mang ý nghĩa: không hạn chế. Trong các bản văn Kinh thánh, chỉ mỗi bản tiếng Do thái ở sách Khởi nguyên là nói đến số 77 khi tác giả đề cập đến lời vãn của Lamek, thôi.

Chương 4 sách Khởi Nguyên, ở truyện kể về Cain giết Abel có nói đến việc Lamek giết một trẻ bé trong đó ghi lời vãn của Lamek, như sau:

“Cain được báo thù gấp bảy,

còn Lamek thì gấp bảy lần bảy mươi!”

(Kn 4: 24)

Xem thế thì, số 77 ở Kinh thánh là cốt để nói về người nào đó giết chết trẻ em. Con số 77 là số lần để ta tha thứ cho những ai sơ xuất lỡ lầm đến là thế. Và là thế, có nghĩa: không nên giới hạn số lần tha thứ mỗi khi ta sơ xuất/lầm lỡ đến thế nào đi nữa, cũng vậy. Và tha thứ, là việc ta cần làm cho những ai đang có nhu cầu được thứ tha.

Với thánh Mátthêu, lỗi phạm chỉ mang tính nghiêm trọng khi đó là chuyện hãm hại hoặc xúc phạm đến trẻ nhỏ. Đức Giêsu chẳng khi nào quan niệm về “không nhân nhượng” như thói quen của một số người nay chủ trương. Ngài chú trọng vào việc ta cần bảo vệ cộng đoàn, đặc biệt là con trẻ. Nhưng Ngài cũng nhấn mạnh vào việc phải tha thứ cho những ai có liên quan đến cộng đoàn hoặc dám xúc phạm đến con trẻ.

Với thánh Mátthêu, tha thứ là việc tự động và nhanh chóng cần làm ngay. Làm, theo cung cách càng đơn giản càng tốt. Đó là sự khác biệt giữa quan niệm của thánh Mát-thêu về cộng đoàn mình chung sống với cộng đoàn khác. Dĩ nhiên, tất cả đều xây dựng trên nguyên tắc làm nền nói đến ở đầu chương 18 của Tin Mừng thánh nhan. Đây còn là nguyên tắc thực tiễn để xây dựng và lãnh đạo cộng đoàn niềm tin vẫn chung sống.

Bầy tỏ lập trường như thế rồi, thánh Mát-thêu mới kể dụ ngôn về người bày tôi ác nghiệt ở đoạn 18 câu 25 đến 35. Cũng nên gọi đây là dụ ngôn “người bày tôi không trí nhớ”. Câu truyện dụ ngôn này thật giản đơn đến độ ai cũng nhớ. Nhớ rằng, chính mình đã được chủ xưa nay vẫn tha hết nợ nần, lẫn tội phạm. Nên, tới phiên mình, cũng nên làm như thế. Nhưng thực tế, đã mấy ai nhớ đến nhu cầu tha thứ như mình từng được thứ tha.

Muốn nhớ lâu lời khuyên dặn này, cũng nên để ý đến câu cuối ở trình thuật, trong đó thánh sử ghi rõ:

“Hỡi đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi van xin ta, nay đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?" (Mt 18: 33-34)

Bình thường, người mình vẫn có trí nhớ rất kém. Kém nhớ, là bởi: ai cũng quên rằng mình từng được tha thứ rất nhiều, nhưng lại quên. Chính vì quên, nên ta đã không tha thứ người khác.

Bởi thế nên, thánh sử Mát-thêu mới nhấn mạnh sự thể rằng tất cả chúng ta đều là con trẻ, tức những người bé mọn. Là, những kẻ lạc lõng đang cần người cảm thông, chào đón. Tất cả chúng ta đang ở vào giai đoạn cuối để đón nhận lòng thương tha thứ từ Cha, ngang qua các vị khác. Có nhớ mà tha thứ, ta mới hăng say tình nguyện thứ tha cho tất cả mọi người đang sống quanh ta. Đó, là nguyên tắc làm nền mà trình thuật hôm nay muốn gửi đến mọi người, trong cộng đoàn Hội thánh thân thương, ở mọi thời.

Trong cảm nhận ý nguyện tốt lành của thánh sử, ta lại sẽ hân hoan hát lên lời thơ còn dang dở:

“Anh đã gặp hồn em đang chới với,

Bến Mê Hà trên giải nước mênh mang.

Anh đã đón tình em bay phất phới,

Như hương trăng, đằm thắm cõi không gian.

Chúng ta tiến, em ơi, làm thanh khi.

Cho tan ra hoà hợp với tinh anh.

Của trời đất, của muôn vàn ý nhị,

Và tình ta sáng láng như trăng thanh.”

(Hàn Mặc Tử - Sáng Láng)

 

Tình ta, cứ thế mà sáng láng. Sáng, như muôn vàn tinh tú rất trăng thanh. Đằm thắm. Ý nhị, ở mọi thời. Thời, có anh và có em tìm đến với con trẻ bị lãng quên, cần yêu thương. Tha thứ. Bởi, thứ tha là tất cả. Thứ tha, là diễn tả tình thân thương của anh em, một nhà.

 

Lm Kevin O’Shea, DCCT biên soạn –

Mai Tá lược dịch