Wednesday 27 June 2018

“Sao bông phượng nở trong màu huyết,”


Suy Tư Chúa nhật thứ 13 thường niên năm B 01/7/2018

(Mc 5: 21-43)Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống." Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.

Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người. Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu." Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: "Ai đã sờ vào áo tôi? " Các môn đệ thưa: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ÀAi đã sờ vào tôi?" Đức Giê-su ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Người nói với bà ta: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh."

Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?" Nhưng Đức Giêsu nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi." Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!" Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm.41 Người cầm lấy tay nó và nói: "Ta-li-tha kum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!" Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. Đức Giê-su nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.

“Sao bông phượng nở trong màu huyết,”
“Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

            Phượng vẫn đỏ, nhỏ một màu huyết. Nhỏ xuống lòng người những giọt châu! Có lẽ, đây cũng là ý tưởng được thánh Máccô đưa vào trình thuật kể về hoạt động của Chúa, đầy trân châu!

Trình thuật, thánh Máccô nay nói về đời hoạt động của Chúa rất công khai, sinh động. Hoạt động của Ngài, là sinh hoạt sống động rất tính người, mở ra với mọi người; để rồi sẽ đánh động những người quẩn quanh bên Chúa. Chí ít, là các tông đồ, thừa tác viên, và nữ phụ. Tất cả đều hợp lòng cùng Chúa ra đi rao báo Nước Trời ở trần thế.

Trích đoạn hôm nay có nói về cháu bé nhỏ là con gái ông Giaia sắp ra đi hoặc đã chết. Câu chuyện được phối kết với truyện kể về một nữ phụ không rõ danh tánh đang bị chứng xuất huyết. Và phối hợp với truyện người cha của cô gái nhỏ đang lâm bệnh khiến ông cứ tìm cách luẩn quẩn gần bên Chúa. Vai trò cùng chức năng của ông được thánh sử tả là chức sắc lo việc ở đền thờ, tuy không là đấng bậc lừng lẫy ở huyện thành, nhưng cũng được Chúa đoái hoài. 

Sở dĩ Đức Giêsu quyết định đến thăm ông, là vì tình trạng nguy ngập của người con nhỏ. Khi tin tức loan về cái chết của cháu bé này, người thân cận với Giaia đã khuyên Chúa đừng đến chữa cho cháu bé còn nhỏ kẻo gặp rắc rối. Có điều lạ, là: theo ngôn ngữ của người phương Đông, thì đó là cách hay nhất để khích bác Chúa hãy ra đi tìm đến những nơi nào nhiều rối rắm mà giải quyết theo cung cách của Đấng Bậc cao cả. Kết quả là, Chúa quyết đến với những nơi nào thường gây phiền toái hầu chữa trị cho cháu bé còn nhỏ tuổi, dù là con của chức sắc đền thờ. Quả là, ngôn từ của người Đông phương thích chọn cung cách nghịch ngạo chống cưỡng những gì mình mong muốn, tựa như câu nói mà nhiều người vẫn nghe như: “Anh cứ hẹn, nhưng anh đừng có đến…” Hoặc: “Xin Chúa hãy rời xa nơi tôi…”, nhưng kỳ thực vẫn muốn.

Cũng tựa như thái độ của nữ phụ bị xuất huyết những muốn đạt điều gì mình mong được Chúa đoái hoài mà chấp nhận lời van nài, khẩn khoản. Nhằm đạt kết quả, bà lại đã sử dụng phương cách khích bác của người Đông phương và sự khôn khéo của nữ giới với kỹ năng khác người, là sờ chạm gấu áo của Ngài. Bà thừa biết rằng bà không thể đạt những gì bà cầu mong mà lại không đánh động lòng xót thương của Chúa. Nói cách khác, bà muốn Chúa biết sự việc bà đang làm. Và, biết cả ước nguyện của bà là đạt thành quả từ Ngài không chỉ mỗi việc chữa chạy thể xác nhưng điều bà cần hơn cả, là: sự chữa lành niềm tin khiến bà lành lặn trở lại, để yên hàn. Điều này chứng tỏ là bà biết cách hành xử sao cho kết quả hầu đạt trọn vẹn lòng thương xót, vẫn có từ Chúa.   
      
Cách kể truyện theo kiểu trên là văn phong độc đáo của thánh Máccô. Ở đây, cũng nên biết, là: động thái Chúa vẫn làm cho các nữ phụ trong Tin Mừng thánh Máccô thường thánh sử kể về động thái cho thấy rõ sự khôn khéo của nữ phụ phương Đông quyết làm những chuyện lạ kỳ để đạt kết quả mình mong ước, như: ở đoạn trước đó thánh sử kể về tài khéo léo của Hêrôđia là lấy được đầu của thánh Gioan Tiền hô đặt trên dĩa, và phân nửa đất nước do Hêrôđê chiếm giữ. Chương 7 Tin Mừng thánh Máccô còn kể về sự kiện nữ phụ người Syro-phênixy bị quỉ ám cũng có tài thuyết phục Chúa ra tay chữa lành cho con gái của bà, tức những điều Chúa không định làm vào lúc đầu.

Nhiều truyện kể tương tự trong Cựu Ước cũng đã nhấn mạnh đến uy lực và tài khéo léo của phụ nữ giúp các bà đạt kết quả về những gì các bà có quyết tâm. Sách Giuđita kể truyện dân Chúa chọn đã chiến thắng quân thù nhờ vào sự can thiệp của phụ nữ. Bà Giuđita đã vượt thắng tính hèn nhát của dân con trong xứ sở, đã dám quở trách lãnh tụ lúc đó thiếu lòng tin. Bằng vào lời nguyện cầu, bà chạy đến cùng tướng Hôlôphênê dùng nhan sắc cùng tài trí khôn ngoan của nữ giới đã cắt được đầu của ông tướng. Bà Esther cũng từng làm thế, khi tướng A-man tìm cách bóp nghẹt sự sống của dân Do thái đang sống đời lưu lạc xứ Syria. Thoạt thấy bà, nhà vua nói: “Thiên Chúa đã biến đổi lòng trí ông, đem thần khí sống động đến khiến dân con đất nước của ông được an lành…”

Ở đây nữa, cũng nên nhìn vào diện mạo của Đức Giêsu được thánh Máccô tả ở Tin Mừng. Thánh sử không hề viết đến một chữ việc Chúa giáng hạ. Với Tin Mừng thánh sử Máccô, người đọc chỉ biết Chúa vào lúc Ngài công khai hoạt động vì con người, với con người. Đó là lúc Ngài trưởng thành, phát triển và học được tính chất rất “người” từ hoàn cảnh của đời người. Ngài không là hữu thể trên cao nay mặc hình hài bên ngoài của con người, nhưng đã sống thực tận trong con người, Ngài nhận thức rõ những gì đang xảy đến và những gì Ngài sắp phải làm. Ngài rất mạnh, nhưng đôi lúc cũng không nắm chắc cả đôi điều. Tức, Ngài không rõ những gì Ngài làm có khiến người khác khuynh loát được Ngài theo cung cách không định trước, hay không. Nhiều người thấy Ngài giống người bình thường như ta.

Có thể nói, ở nơi Ngài, có cả tính duy thực lẫn tâm tánh dịu hiền trong cung cách. Đức Giêsu ở Tin Mừng thánh Máccô là nhân vật thánh thiêng sống trong hoàn cảnh dẫy đầy bão táp, mưa sa rất hiện thực. Ngài không có vóc dáng của bậc vĩ nhân ở trần thế. Ngài là Đấng Bậc chẳng mang dáng vẻ của vị anh hùng cái thế giống giòng dõi La Mã, Hy Lạp hoặc Do thái. Ngài ít khi là người thắng cuộc, rất thẳng thừng. Với ai trông mong ở Ngài tính chất cao cả của bậc vĩ nhân, thì Ngài lại mang đến cho họ sự thất vọng, chán chường, cả đến sững sờ vì Ngài không có khả năng khống chế mọi người. Với họ, ngôn từ Ngài sử dụng ra như bối rối, phức tạp. Ngài như khiến cho đồ đệ mình lẫn lộn nhiều thứ đến tận cùng.
Với nhiều người hằng trông mong Ngài trở thành người con dễ thuần thục hoặc theo đúng qui ước vẫn sáng chói trong chiến thắng lẫy lừng đầy dũng cảm, thì họ không dễ dàng gì mà chấp nhận con người như Đức Giêsu được. Nhưng, Ngài lại là người có óc thực tế rất cao vời, như chưa có người như thế. Ngài nhìn thẳng mặt vào uy lực của sự chết, nhưng không nhất quyết chinh phục lực hút ấy. Thật ra, ta thấy nơi Ngài có sự hiền dịu, nhào quyện với sự bất toàn trong việc đứng lên hành động chống đối, vào nhiều lúc. Nơi Ngài, ta thấy chính sự hiền dịu trỗi dậy từ sự chết… Nơi Ngài, chừng như có hai diện mạo, và Ngài ra như không biết cách hoà quyện hai diện mạo ấy thành chính Ngài…

Ở Tin Mừng thánh Máccô, Đức Giêsu vừa “chạnh lòng thương” (tiếng Hy Lạp là Splanchnistheis) những người bị ngã qụy (Mc 6: 34, 8: 2 và 9: 22-23) và dễ “nổi giận” (tiếng Hy Lạp là “orgistheis”) khi con người không tin vào Ngài (Mc 3: 5 và 9: 23). Và tiếng Hy Lạp tả về động thái “chạnh lòng thương” nếu dịch từng chữ là “thấy xúc động tận tâm can”. Còn “dễ nổi giận” nếu dịch sát là ở vào trạng thái bùng nổ đến điên cuồng mà tiếng Việt mình gọi là “giận điên” không thực sự kềm chế được.  

Có điều lạ, là người cuối cùng chép lại Tin Mừng theo thánh Máccô lại bỏ đi các cụm từ ấy, có lẽ vì họ không muốn Đức Giêsu mang tâm tính đó. Và, cũng chẳng muốn đấng bậc thần thánh như Ngài mà lại có thái độ như thế, cũng không nên. Xem thế thì, nhiều dân con Đạo Chúa thấy có nhu cầu biến Đức Giêsu ít đúng thực và cũng ít chất “người” hơn là Ngài vẫn thế. Họ cũng muốn Ngài “hội nhập” nhiều hơn. Họ chẳng bao giờ muốn để các nữ phụ cứ khuynh loát, lèo lái tính nhân hiền tử tế của Ngài hết. Thành thử, rất nhiều khi, Ngài cũng chẳng biết sau đó phải làm thế nào cho vừa lòng mọi người.
Ở Tin Mừng thánh Máccô, Đức Giêsu là ngôn sứ “chuyền chéo” rất Galilê, và Ngài thăm Giuđêa coi như động thái quyết đạt đến giai đoạn thách thức lại thập giá của La Mã. Khi viết Tin Mừng, thánh sử không gộp chung các sự kiện này vào với nhau. Nhưng, điều mà thánh sử cần tả là việc Ngài hoà trộn với chúng dân và nhiều lúc đã để họ dẫn đưa Ngài vào con đường mà Ngài không có khả năng đảm trách chỉ một mình. Đấng biết mình chết cho con người không nhất thiết phải là người cần hội nhập cuộc sống đầy cảm xúc của Ngài.

Thật ra, đó không là đòi hỏi hỏi của phục sinh. Là, con dân của Chúa, chúng ta cũng không buộc phải làm thế. Như Đức Giêsu, ta vẫn có thể đến với mọi người bằng tư cách của chính mình, mà vẫn được cất nhắc khỏi sự chết. Nói cho cùng, theo văn phong thể loại của thánh sử Máccô, thì chừng như Đức Giêsu vẫn mở rộng ra để nữ giới lãnh đạo và dẫn dắt. Thật ra, có thể nói, Ngài bị giới hiền dịu và tử tế đã hơn một lần từng khuynh loát Ngài. Nhưng có khuynh loát hay không, điểm tới vẫn ở trước mặt cho cả lãnh tụ lẫn người bị dẫn dụ, và khuynh loát.

Trong tâm tình đó, có lẽ cũng nên cùng với nhà thơ ngâm nốt câu ca, mà rằng:

            “Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
            Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
            Sao bông phượng nở trong màu huyết,
            Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?”
            (Hàn Mặc Tử - Những Giọt Lệ)

Giọt châu hay giọt máu cũng vẫn là giọt lệ. Của giới nữ vẫn đem nhà thơ bỏ “dưới trời sâu.” Ở nơi đó, nhà thơ cùng người người lại sẽ thấy bông phượng nở trong màu huyết, có Đấng Hiền Dịu cũng một  tâm trạng như đàn con từng nhỏ giọt châu đỏ, lẫn máu đào, để thương nhau. Mãi một đời.           
                 
            Lm Kevin O’Shea DCCT biên soạn -            
Mai Tá lược dịch

Wednesday 20 June 2018

“Anh chắp tay van, dáng tượng sầu,”


Suy Tư Chúa nhật thứ 12 thường niên năm B 24/6/2018

Lc 1: 57-66, 80  Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Êlisabét sinh hạ một con trai.58 Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.
Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Dacaria mà đặt cho em. Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: "Không, phải đặt tên cháu là Gioan." Họ bảo bà: "Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả." Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: "Tên cháu là Gioan." Ai nấy đều bỡ ngỡ. Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđê. Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?" Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.

“Anh chắp tay van, dáng tượng sầu,”
“Người em mây toả, gót chân đau.”
(dẫn từ thờ Đinh Hùng)

Nhà thơ, nay chắp tay van người em có gót chân đau, dáng tượng sầu, cho mây toả. Nhà đạo mình, tay này cũng chắp nhưng chỉ để ngợi ca/tuyên dương đấng thánh nhiệm mầu, ở trình thuật.

Trình thuật, thánh Luca không cho thấy đấng thánh ngợi ca riêng người nào. Nhưng, chỉ ghi đôi điều để dân con Chúa sẽ mãi tuyên dương đấng thánh Tiền Hô, rất tưng bừng ngày lễ hội.

Hội lễ hôm nay, con dân Chúa lại đã thấy phụng vụ mừng kính thánh Gioan Tiền Hô những hai lần. Một, vào ngày sinh dịp tháng 6. Và ngày kia, là ngày tử thánh nhân bị Hêrôđê truyền lệnh chém đầu theo yêu cầu của “Hêrôđia”, một nữ phụ tội lỗi. Phụng vụ, lại cũng đề cao vai trò của thánh nhân loan báo tin vui Cứu Độ Chúa thiết lập với cộng đoàn lành thánh, có anh em. Trình thuật về thánh Gioan Tiền Hô/Tẩy rửa xuất hiện ở nhiều tài liệu lịch sử cũng như Tin Mừng.

Theo tài liệu của Josephus, thánh Gioan Tiền hô được tả qua nhận xét của người Do thái lúc bấy giờ. Với họ, Gioan Tiền Hô là đấng thánh liên tục mời gọi mọi người sống đời đạo hạnh biết kính Chúa và chứng tỏ tình thân thương mình có với mọi người, và với nhau. Thánh nhân cũng mời mọi người hãy đến bên giòng chảy Gio-đan để rửa lòng cho sạch, để chẳng còn phải vương vấn gì. Nhưng, tài liệu này không đả động gì đến ngày sinh, cũng như lý lịch gia đình của thánh Gioan hết.

Tin Mừng thánh Máccô lại đã ghi thêm đôi điều về đời khắc khổ của thánh nhân vốn chọn con đường khổ ải vùng hoang vu/sa mạc hầu lôi kéo nhiều người bước vào chốn tẩy rửa, nguyện cầu. Thánh Máccô gọi thánh Gioan Tiền Hô là ngôn sứ hiếm có sau nhiều thế kỷ vắng bóng trong đạo. Theo thánh Máccô, thì Đấng thánh Tiền Hô lại đã mang đến cho những người dấn bước theo Ngài thông điệp hằn sâu nơi sự việc người Do thái khi xưa trở về từ chốn lưu vong, khắc khổ. Đặc biệt hơn, thánh Máccô còn tả thánh Gioan Tiền hô như đấng bậc dám bước chân vào chốn nguyện cầu khắc khổ ở sa mạc, trước Đức Chúa. Tuy thế, thánh sử không ghi gì thêm về thuở thiếu thời của đấng thánh Tiền Hô, rất chân chất.        
  
Trong khi đó, tác giả Tin Mừng thứ tư lại đặt đấng thánh Tiền hô ở vào vị trí khiêm tốn, mọn hèn. Thánh sử Gioan Tông đồ ghi mỗi sự kiện về đấng thánh Tiền hô đã có mặt rất sớm ở Tin Mừng của ngài. Làm thế để minh chứng Đức Giêsu là ai? Đấng nào? Và, thánh Gioan vẫn thẩm định rằng: mình không là Đấng Mêsia, cũng chẳng phải Êlya, mà chỉ là ngôn sứ kiểu Môsê chân truyền, ai cũng biết. Rõ ràng, Tin Mừng thứ tư cũng chẳng ghi gì về thời thơ ấu và niên thiếu của đấng thánh Tiền hô và Đức Giêsu, hết.

Riêng thánh sử Mátthêu lại có đoạn ghi thân thế của thánh Gioan Tiền hô, nhiều hơn ai hết. Thánh Mátthêu đặt đấng thánh Tiền hô nơi Tin Mừng của ngài để công khai loan báo cũng cùng một sứ mạng như Đức Giêsu nhận lãnh, cũng một văn phong, thể loại như khi tác giả tả về Thày Chí Ái. Ngôn từ thánh sử dùng chỉ đơn giản gồm mỗi thế này: Nước Chúa đã gần kề. Anh em hãy thay đổi tầm nhìn và thái độ về thế gian, để xứng đáng với tình huống lịch sử ‘có một không hai’ Chúa diễn lộ.

            Nhưng nhân vật Tiền hô ở Tin Mừng Mátthêu lại quá tập trung vào việc ứng đáp và chi tiết phán xét của Giavê hơn động thái hiền hoà Đức Giêsu vẫn hành xử. Đọc Tin Mừng Mátthêu, người đọc sẽ thấy thánh Gioan Tiền Hô trông giống nhà giảng thuyết hùng hồn giảng lớn tiếng. Thánh Mátthêu còn ghi chú thêm, là: người Do thái bình thường đã chấp nhận đấng thánh Tiền Hô thôi, riêng nhóm Pharisêu và Sađuxê, thì không thế. Chính vì vậy, thánh Mátthêu mới đặt để nơi miệng Chúa lời khẳng định về điều Ngài từng quả quyết: “Xét người phàm, chẳng ai sánh tày Gioan Tẩy giả, nhưng kẻ nhỏ nhất trong những người bé nhỏ ở Nước Trời lại cao cả hơn thánh nhân”. Nói chung, thánh Mát-thêu cũng không quan tâm đến nguồn gốc của thánh Gioan.

Thánh Luca thì khác. Thánh Luca coi thánh Gioan Tiền Hô là đấng thánh kiểu xưa/cũ, tức: chuyên lập cầu ráp nối giữa cái cũ và cái mới. Thánh nhân chính là điểm khởi đầu để cho Đức Giêsu được nổi bật hơn. Ở Tin Mừng Luca, thánh Gioan Tiền Hô là đấng bậc hiền hoà đem đến cho mọi người thông điệp rất rõ: “Hãy sẻ san của ăn/thức uống mình có và chỉ nên thu gom cho mình những gì cần thiết, đúng mức; chớ bức ép người đồng loại; và, bằng lòng với lương tiền/lợi lộc dành cho mình trong cuộc sống. Hãy nhận ơn thanh tẩy, ở giòng sông Gio-đan.” 

Ngược lại, thông điệp của Chúa còn cao cả hơn. Thông điệp Ngài lại mang tính chất toàn cầu, vượt dân nước Do thái. Thông điệp Ngài tóm gọn nơi dụ ngôn về Người Samaritanô nhân hậu và truyện “Người con đi hoang”, cũng rất rõ. Thông điệp,  Ngài loan báo cuộc tẩy sạch hết dân gian gửi đến tất cả mọi người trên hoàn vũ, chứ không ở giòng sông nhỏ mang tên Gio-đan, mà là ơn lành thanh tẩy từ Thần Khí Chúa, là Đấng sẽ hiện đến vào lễ Ngũ Tuần và cứ thế tiếp tục mãi.   

Ở Tin Mừng thánh Luca, ta nhận ra đôi điều về xuất xứ của đấng thánh Tiền Hô. Thật ra, khi cử hành mừng kính sinh nhật của thánh Gioan, nhiều người thường nghĩ về thánh nhân như đấng bậc “thanh tẩy” như phụng vụ Hội thánh vẫn làm. Thật sự, thánh nhân không chỉ làm mỗi việc ấy. Ngài còn tập hợp mọi người bên sông Giođan, đưa họ vào giòng nước để có kinh nghiệm đầm mình trong đó, như một sàng lọc, để rồi từ đó tới đất hứa đòi lại những gì Chúa ban. Đất Chúa hứa, từng bị Đế quốc La Mã tiếm quyền, chiếm ngự. Và, thánh Gioan tổ chức nghi tiết có đoàn người kéo nhau đòi lại đất cho người Do thái. Đây là động thái mang tính chính trị nhằm chống lại sức ép của Đế quốc. Thánh Gioan là khuôn mặt chính trị và là người sáng lập ra nghi tiết chống đối mang ý nghĩa châm chích, rất đau lòng.

Chỉ mỗi thánh Luca là kể về sự cưu mang và sinh nở của thánh Gioan thôi. Một phần truyện kể là về Đức Maria, Mẹ của Chúa đi thăm bà Êlizabét, thân mẫu của thánh Gioan Tiền hô để Mẹ hát bài ca “Xin Vâng” theo lời thần sứ khuyên. Có lẽ nên nhận ra nơi đây hai bài chúc tụng cùng chung ý nghĩa và mục đích nói lên sự vui mừng của thánh Gioan Tiền Hô, lẫn Đức Mẹ.

Viết như thế, thánh Luca hàm ngụ ý nghĩa một động thái mang tính chính trị của người Do thái có niềm tin rất vững vào lời ca mà Đức Maria, Mẹ của Chúa đã sáng tác cho ta, lúc Mẹ mang thai. Cả Mẹ nữa, cũng đi vào với chính trị của Chúa. Chính trị đó, ta gọi là bài ca “Xin Vâng”, qua đó Mẹ tuyên dương Chúa đã làm nhiều việc qua Con Một Ngài là Đức Giêsu, tức đã hoàn thành ý định của Cha Ngài:

“Ra tay biểu dương sức mạnh làm tan tác bè lũ kiêu căng lòng trí
hạ bệ những kẻ quyền thế khỏi ngôi báu
nâng cao mọi kẻ khiêm hạ
cho kẻ đói nghèo được no phỉ sự lành
xua đuổi về không những kẻ giàu có.

            Thế đó, không là tư duy về lòng đạo rất sốt sắng mà là thực chất bộc phá nền chính trị. Tựa hồ các vấn đề thời đại ngày nay ta vẫn có, như:

            -Tính ngạo mạn, kiêu căng
-bè lũ thống trị vô liêm sỉ, thiếu công bằng
-áp bức người khiêm hạ ở dưới thấp và những kẻ đói khát
-đám nhà giàu mải mê bòn mót tiền bạc và của cải của người khác.

Đó là chủ đề Tin Mừng thánh Luca có lời cung chúc rất “Xin Vâng”. Có cả chương đoạn kể về thời thơ ấu của hai Đấng. Tin Mừng đó, không là văn phong của trẻ nhỏ. Nhưng, là chính trị của người lớn. Chính vì thế, có lẽ ta cũng nên cân nhắc những điều được nói để đem ra khỏi lễ hội Giáng Sinh, đình đám. Bởi, không thể đặt Đức Kitô vào với Giáng sinh cho đến khi nào ta đưa nền chính trị của người lớn rất Kitô vào với cảnh trí thế giới của riêng mình. 

Mỗi thánh lễ ta tham dự đều mang ý nghĩa như một tuyên xưng quyết nói lên, rằng: kẻ nắm giữ mọi quyền bính phải nhận ra rằng của cải/bạc tiền trên thế giới thuộc về dân nước sống trong đó. Họ có bổn phận phân phát cho người dân, thật đều. Và, ưu tiên cho những người còn nghèo còn đói, bị bỏ rơi ngoài phố chợ. Đó, mới là thứ chính trị mang lợi ích đến những người có nhu cầu cấp bách, rất trông mong.     
   
Tuần qua, ta suy niệm về cộng đoàn khác thường được nói ở dụ ngôn, vượt quá gia đình cũng như nhóm hội Chúa thiết lập. Truyện kể về ngày sinh của thánh Gioan Tiền Hô hôm nay, là bản dạo đầu cho “gia đình” khác thường ấy. Truyện kể về thánh Gioan, cũng nói trước về nền chính trị mang tính dụ ngôn của cộng đoàn khác thường. Và, đó là cung cách viết Tin Mừng của thánh Mác-cô. Thế nên, sống theo đường lối của thánh Mác-cô cũng cần để có được một nền chính trị đích thực theo kiểu thánh Luca mà tạo ảnh hưởng lên thế giới, rất gian trần.

Trong cảm nghiệm này, cũng nên ngâm lại lời thơ vừa trích, mà ca lên:
           
“Anh chắp tay van, dáng tượng sầu,
            Người em mây tỏa, gót chân đau.
            Xin cho da thịt là sương khói,
            Quyền phép đôi ta vẫn nhiệm mầu.”
            (Đinh Hùng – Trái Tim Hồng Ngọc)

Quyền phép hôm nay, thánh nhân đã hoá giải. Để, người người nhờ đó sẽ ca vang bài “Xin Vâng” như Đức Maria từng cất tiếng. Mẹ cất tiếng ca vang để người người lại sẽ có được “trái tim hồng ngọc”, lời hứa Chúa phú ban gửi đến mọi người, suốt mọi thời.    

            Lm Kevin O’Shea DCCT biên soạn -             
             Mai Tá lược dịch

Thursday 14 June 2018

“Hôm nay có phải mùa Thu,


Suy Tư Chúa nhật thứ 11 thường niên năm B 17/6/2018
(Mc 4: 26-34)
Một hôm, Đức Giêsu nói với dân chúng: "Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa."

Rồi Người lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng."

Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.

“Hôm nay có phải mùa Thu,
Mấy năm xưa đã phiêu du trở về.”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Nơi nhà thơ hôm nay, chính là mùa Thu. Mùa, của những phiêu du trở về, từ mấy năm xưa. Với nhà Đạo, nay mùa thường niên phụng vụ. Mùa, của những suy tư, nguyện cầu có Lời Chúa dẫn dắt. 

Suy tư nguyện cầu, với trình thuật thánh Mác-cô ghi, có dụ ngôn Chúa kể để người người đi dần vào chốn tâm tư đầm ấm, vẫn lắng đọng. Nguyện cầu suy tư, về người gieo giống nơi đất ruộng ở tình huống tinh mơ mù tối như các nhà chú giải thấy có khoảng cách còn bỏ ngỏ ở dụ ngôn. 

Về trình thuật, các nhà chú giải đều suy nghĩ theo cách khác biệt. Crossan gọi dụ ngôn đây là “tình huống không phù hợp, thiếu dứt khoát”. Trong khi đó, bình luận gia Dermode lại thấy câu cuối của trình thuật “chẳng có gì rõ rệt”. Stephen Moore lấy làm thích thú cũng hơi lạ về câu “có hạt rơi xuống vực thẳm không sinh lợi”. Nói chung thì, dụ ngôn thánh Mác-cô ghi, chỉ nói cách gián tiếp, không rõ rệt về lập trường của Chúa. Dụ ngôn hôm nay, không đưa ra điều gì độc đáo, rõ rệt, mà chỉ đảo ngược suy tư, tưởng đoán của người nghe, thôi. 

 Dụ ngôn đây, là truyện kể không khúc chiết cũng không mạch lạc, có khi còn tinh ranh nghịch ngợm, tức: không hứa hẹn điều gì và cũng chẳng chuyển tải lập trường nào vững vàng chắc nịch hết. Dụ ngôn, chỉ độc đáo ở văn phong thể loại qua đó thánh Mác-cô muốn chứng tỏ, rằng: Chúa đã trỗi dậy từ chốn mông lung, mù tối. Ngài đã biến đổi tình trạng tăm tối của người đời để mặc khải một sự thật, là: các suy tư của ta đều giới hạn.

Có điều lạ, là: khi Chúa bị cáo giác là đầu óc Ngài không lành sạch và chừng như Ngài cũng bị quỷ ám, thì Ngài đáp trả bằng truyện kể dụ ngôn. Cũng thế, khi ta giáp mặt với cách biệt mở ngỏ ở dụ ngôn, và giả như ta có khả năng giải quyết mọi cách biệt như thế trong cuộc sống không ý nghĩa, thì ta đâu phải là người không lành sạch. Và, khi ta vượt qua cảnh đời nô lệ rất không minh bạch để đến với rõ ràng, đúng đắn, thì ta không còn bị quỷ tha ma bắt, nhưng lại có quyền uy tuyệt đối bằng những lời tuyên bố trọn hảo. Và từ đó, ta có thể thư giãn ngồi cười và kể những câu truyện mỉa mai, châm biếm mà Tom Wright vẫn bảo mọi người đi Đạo chúng ta đều mắc phải hội chứng thiếu tính châm biếm, mỉa mai, khôi hài. 

Người tỉnh táo hơn, sẽ đọc ra được dấu vết tư tưởng của ngôn sứ Isaya ở dụ ngôn truyện kể do thánh Máccô ghi. Sách Ysaya đoạn 55, câu 10-11 viết: lời của Chúa giống như làn nước ban hạt giống cho người gieo và như bánh trái cho người được ăn. Nhưng, các đoạn này không ‘điều giải’ được sắc thái khác thường/dị biệt ở dụ ngôn. Ngoài ra, các cụm-từ chính dù không rút từ Kinh Sách của người Do thái, nhưng lại đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong câu chính “Người Con Dấu Yêu” gieo vãi/nảy nở ở nhiều chỗ trong Tin Mừng thánh nhân ghi. Chừng như thánh Máccô muốn người đọc quay về với cảnh trí có thanh tẩy để bắt đầu truyện kể về Tin vui ngài công bố. 

Thần Khí đến với Chúa khiến Ngài trở nên Con Một của Chúa Cha. Và, động thái này gây ảnh hưởng lên tính “Người” của Ngài, khiến tính chất ấy yếu dần đi để Ngài trở thành “con người” đích thực để rồi biến đổi tính mỏng dòn của con người thành động thái mở ra với Chúa. Người đọc dụ ngôn, có thể diễn rộng tư tưởng ấy theo cung cách giảng giải tiêu biểu của Chúa. Chính vì thế, Chúa đã nói lên những điều chưa hoàn tất để thêm vào. Và, đó là nét đặc thù của dụ ngôn, hôm nay.

Chính trong phần kể truyện thánh Mác-cô sử dụng, các dụ ngôn được tháp nhập vào trong đó. Chừng như đó chính là đặc trưng của chính dụ ngôn. Nên, khi thánh Máccô viết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa là ngài viết qua tư cách làm con của loài người không tự bảo vệ chính mình trước uy lực dẫn Ngài đi đến hệ quả là, nỗi chết. Có thể tất cả sự việc được nghiên cứu và suy nghĩ thật cặn kẽ để biến thành dụ ngôn, rất ý nghĩa. 

Quanh dụ ngôn người gieo giống ở Tin Mừng Mác-cô đoạn 4 câu 14-20, có hai đoạn văn qua đó tác giả sử dụng phương pháp diễn giải, đặc biệt ở đoạn 4 câu 10-13 và câu 20-25, tác giả tập trung nhấn mạnh đến sự kiện mù tối/hiểm hóc, cung cách sử dụng ngôn ngữ của dụ ngôn. Hiểm hóc/mù tối ban ra để chỉ một ít người được chọn là người có tai để nghe, chứ không được mặc khải, cả với mình. 

Khi nói về hạt giống tăng trưởng, thánh Mác-cô nhấn mạnh chữ “hạt giống lớn lên”, ngài muốn nói: ngay cả những người gieo giống cũng không biết hạt ấy tăng trưởng cách nào. Cũng vậy, có nhiều điều người nghe vào thời ấy không thể hiểu, tựa như sự chết và sự sống mới. Điều đó, khởi sự từ chức năng “Con Thiên Chúa” tiếp theo sau là phần tự sự nói theo nghĩa chữ, tức sự thành tựu đem con người đến nơi nào chẳng ai biết được. 

Và, ở dụ ngôn, điều này thách thức con người đạt đến thành tựu bằng chính ngôn ngữ của mình. Theo chân Chúa, người người đi vào chốn mù tối vượt quá mọi dẫn giải. Chính vì thế, con người nên sẵn sàng với tình huống ấy, tức: cuối cùng ra, dụ ngôn chỉ là ngôi mộ, luôn trống vắng.

Có điều khiến ta thấy rõ, là: thánh Máccô đưa mọi người vào với thứ gì đó hơn cả dụ ngôn. Dù, thánh nhân dạy ta suy tư theo cung cách của dụ ngôn. Tựa hồ phụng vụ Hội thánh cũng dẫn ta về với suy tư giống như thế, về cộng đoàn do Chúa thiết lập. Suy tư, là bởi: ở đây nữa, luôn có sự mù mịt tối nghĩa. Bởi, tất cả đều tiến triển theo cung cách của dụ ngôn, thôi.

Con dân Đạo Chúa là tập thể khá bất thường. Có người gọi họ là gia đình không dựa trên quan hệ họ hàng. Người khác lại bảo: họ là nhóm người đã được biến đổi bên trong Do thái dựa trên ý tưởng về “đầy tớ Chúa” như ngôn sứ Ysaya từng nói. Ý tưởng này, không đối chọi với ý niệm về “người ngoại cuộc” sống ngoài nhóm hội của các thánh. Với Ysaya, đây chỉ là chuyện nhỏ về người đầy tớ tái tạo bộ tộc của Do thái mà không cần trở thành ánh sáng muôn dân nước. Chúc lành của Thiên Chúa là sự lành thánh ban cho dân Do thái, nhưng điều đó cũng có nghĩa là: ơn lành được ban cho toàn thế giới qua dân Do thái. Cũng đúng cả hai và ngược lại. Đó chính là sự mù tối, thiếu nghĩa. Đó, cũng là dụ ngôn, cũng rất thật.

Có người hỏi: vậy thì, với Đức Giêsu, gia đình là gì? Khi sống đời trưởng thành, Chúa có gia đình không? Phải chăng ta muốn đây là việc thăng tiến các gia đình; và bằng vào việc này, ta lại thăng tiến cả lịch sử đứng sau con người? Phải chăng đó cũng là cách Chúa muốn ta gắn bó với nhau nhưng không dứt khoát, cũng chẳng rõ ràng? Cung cách ấy, có thể thực hiện được không? Có tốt đẹp lắm không? Vẫn nên tư duy một lần nữa về sự khác biệt giữa ta và người sống chung quanh mình? 

Thật ra, suy tư về sự khác biệt giữa những người sống với nhau và cạnh nhau, có nghĩa là ta phải sống đích thực mà thi hành ý định của Đấng Khác với mình. Đấng ấy đang hiện diện ở chốn thiên cung? Cũng thế, có nên suy tư về tính cách “chính trị” của động thái ủng hộ hoặc chống đối không? Có nên phân tách kỹ ý nghĩa của tả phái với hữu khuynh không? Phải chăng các tương phản như thế vẫn được thăng hoa theo cung cách rất rộng? Phải chăng có yếu tố nào lúc đầu khá rõ rệt để ta có thể định nghĩa được chính mình nếu ý định rất đoan quyết của Đấng Khác với ta, đang ở chốn thiên cung, vẫn chỉ là một và chỉ có tính quyết định, không? Nếu thế thì, đó là tính chất rất dụ ngôn!

Cuối cùng thì, quan điểm chính ở đây, là: sự khác biệt giữa tính hiệp thông và cộng đồng. Hội thánh Chúa đáng ra phải mang ý nghĩa của thể thức khá lạ kỳ về cộng đồng xã hội luôn tuôn chảy từ thể thức kỳ lạ của hiệp thông tâm linh, huyền nhiệm. Bởi, hầu hết các vết thương lòng ở thánh hội, đều đến từ sự diễn giải quá đáng về chiều kích bí nhiệm hoặc mang tính rất xã hội, thôi. 

Cuối cùng thì, công cuộc dựng xây thánh hội sẽ mang ý nghĩa chữa lành vết thương ấy. Giả như Đức Chúa sử dụng dụ ngôn xây dựng hội thánh tựa như khi Ngài đặt tên cho ông Simôn thánh Phêrô rất đá tảng ở Tin Mừng thánh Mátthêu, thì Hội thánh sẽ luôn có đó để được xây dựng thêm một lần nữa. Và, cũng được chữa lành thêm một lần nữa. Và khi ấy, Chúa lại sẽ khuyên nhủ thánh Simôn Phêrô hãy cứ tiếp tục mà dựng xây/chữa lành cho hội thánh của Ngài, mãi như thế.

Cuối cùng ra, tất cả dụ ngôn về người gieo giống là dụ ngôn về một dựng xây cộng đồng thánh hội cũng rất mới, trên đá tảng mang nhiều chấm hỏi, cả dấu chấm.

Trong cảm nghiệm ý nghĩa của dựng xây, cũng nên ngâm tiếp lời thơ còn bỏ đó vẫn chưa xong:

           “Hôm nay có phải là Thu?
           Mấy năm xưa đã phiêu du trở về.
           Cảm vì em bước chân đi,
Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn.”
           (Đinh Hùng – Bài Hát Mùa Thu)

Chắc chắn, bài hát của nhà thơ sẽ không như ca lời của dụ ngôn Chúa dạy. Bởi, mùa Thu có phiêu du vẫn là mùa của những dẫn dụ ta nên về với Chúa mà dựng xây thánh hội vẫn cứ “lưu ly phớt buồn”.          
           Lm Kevin O’Shea DCCT biên soạn
           Mai Tá lược dịch