Saturday 30 March 2013

“Tôi tự nguyện sẽ một lòng chung thủy,"



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ Hai Phục Sinh năm C 07.4.2013

“Tôi tự nguyện sẽ một lòng chung thủy,"
Qua những lần buổn tủi giữa đảo điên.”
(dẫn từ thơ Bùi Giáng)
Ga 20: 19-31
            Đảo điên hôm nay, không chỉ nói về lòng thủy chung, buồn tủi của ai đó. Nhưng, nói về sự thân tình đồ đệ như trình thuật thánh Gioan hơn một lần kể lể. Thánh Gioan, nay vẫn kể về quan hệ thân tình giữa thánh Tôma và Thày mình, rất thủy chung, thân tình.
            Thân tình, thủy chung được đề cập theo cung cách đặc biệt khi thánh Gioan ghi chép về sự kiện Đức Giêsu “đến ở giữa” họ và nói: “Bình an cho các ngưoi!”
“Đến ở giữa” họ, là đến trong ta và đi vào thế giới của ta, cả thời này. “Đến ở giữa” ta, còn là tiến trình xảy đến chứ không là thành quả ta đạt được. Không cần biết tiến trình này kéo dài bao lâu, nhưng việc Ngài “đến ở giữa” ta là Ngài thực hiện điều Ngài quả quyết “hễ có hai ba người tụ họp vì Danh Ta, thì Ta sẽ đến ở giữa mọi người.
            Trình thuật hôm nay lại cũng ghi: đồ đệ Chúa mất tinh thần, nên cứ phải cổng đóng then cài, “vì sợ người Do thái”. Nên, Chúa “đến ở giữa” các ngài là ở cùng và ở với mối lo ngại về an toàn và “sợ người Do thái”. Xem thế thì, nỗi lo ngại và hãi sợ người Do thái nơi đồ đệ và chúng ta, vẫn là lý do và nơi chốn để Chúa “đến ở giữa”. 
            Thánh Gioan kể: những lần Chúa “đến ở giữa” ta là Ngài đến vào lúc con người cứ mãi lo ngại và hãi sợ. Đặc biệt hơn, dân con Chúa vẫn “sợ người Do thái”, suốt nhiều thời. Ta cũng thấy đồ đệ Chúa tụ họp để nguyện cầu tại một nơi rõ ràng đã “cửa đóng then cài” rất cẩn thận, vì “sợ người Do thái”. Làm như thế, giống như thể các ngài đang giữ lời Chúa khi được bảo: “Mỗi khi anh em nguyện cầu, hãy vào phòng riêng đóng cửa lại và nguyện cùng Cha anh em, trong thinh lặng..”
            Ở đây, đồ đệ Chúa nguyện cầu thinh lặng trong phòng kín có “cửa đóng then cài”, nhưng vẫn “sợ người Do thái.” Chữ “sợ” này, thánh Gioan đã lập đi lập lại rất nhiều lần. Vào lần Chúa lên đền thánh cách lặng lẽ vì “Hêrôđê muốn giết Ngài”. Và, vào lúc không một ai dám nói gì về Ngài, cách công khai, vì “sợ nguời Do thái”. Và, cả vào lúc Chúa chữa cho người mù từ ngày bẩm sinh, cũng như lúc người của Chúa xin phép được chôn Chúa cách bí mật, “vì sợ nguời Do thái”. Cứ thế, nỗi “sợ” này xảy đến rất nhiều nơi.
            Tuy nhiên, sau cảnh âu sầu xảy ra trên núi “Sọ”, có hai người xem ra không biết “sợ” và chẳng bao giờ “sợ người Do thái”; đó là: bà Maria Magđala và thánh Tôma. Tảng sáng ngày Chúa trỗi dậy từ cói chết, các nữ phụ ùn ùn kéo nhau đến mộ phần canh chừng xác Chúa còn đó không, đã thấy mộ phần trống rỗng. Kịp lúc ấy, các bà đã biết “sợ”, nên vội lảng tránh khỏi hiện trường. Duy có bà Maria Magđala là dám “ở lại một mình”, không hề sợ.
            Cả vào khi trả lời câu hỏi của thần sứ cứ vấn nạn: “Bà đang tìm ai thế?” bà liền đáp: “Họ lấy xác của Thày tôi đem đi rồi!” Xem thế thì, với Maria Magđala, Đức Giêsu không chỉ là Đấng Tiên Tri cao cả hoặc Đức Mêsia Cứu Chúa mà thôi, nhưng Ngài là Thầy, là Chúa và là Con Thiên Chúa. Bà biết rõ: Ngài là Đấng Thánh Cao Cả nên không bà không biết “sợ” điều gì hết. Và khi ấy, bà không chỉ gọi Ngài là Chúa mà thôi, nhưng còn coi Ngài là Thầy và là Chúa của bà nữa. Với bà, Ngài đã tỏ lộ chính mình Ngài giữa cơn “hãi sợ” của nhiều nguời.
            Trình thuật thánh Gioan còn nói: thánh Tôma là đồ đệ đầu tiên dám thưa chuyện trực tiếp với Đức Giêsu như Chúa của mình. Làm như thế, thánh Tôma chứng tỏ mình là đồ đệ không biết “sợ” và cũng chẳng “sợ người Do thái”, chút nào hết. Ít ra, thánh-nhân đã tỏ ra can đảm hơn đồ đệ khác. Và khi Chúa “đến ở giữa” các tông đồ, thánh Tôma lúc đó không có mặt. Có thể, thánh-nhân đi mua thức ăn cho bạn đồng môn/đồng hành vốn không dám xuất đầu lộ diện vì “sợ người Do thái”.
            Lúc thánh Tôma về lại, đồng môn/đồng hành của thánh-nhân cho biết các thánh đã gặp Thày. Và khi ấy, thánh Tôma yêu cầu xem dấu đinh nơi mình Thày để còn tin. Thánh Tôma biết rõ: lúc ấy, đồng môn/đồng hành của mình vẫn còn lo sợ. Và, một khi con người đã sợ rồi, thì họ chỉ tin vào những gì họ kỳ vọng để được yên thân. Tuần lễ sau đó, Chúa lại đến với đồ đệ đồng hành, có thánh Tôma ở đó. Và thánh-nhân muốn sờ chạm vào Thày Chí Thánh đã “trỗi dậy”. Thánh-nhân đã toại nguyện.
Và ngay lúc đó, Đức Giêsu đã nâng nhắc tinh-thần của thánh Tôma, con người không biết sợ như đồng hành của mình. Cùng với Ngài, hai Thày trò lại đã nâng nhắc chính mình lên với Cha. Đó là lúc thánh Tôma có động thái tin tưởng rất đích thực, nên quả quyết: “Lạy Chúa là Chúa tôi!” Quả quyết này, chứng tỏ là thánh-nhân đã thực sự tin tưởng vào Chúa và là Thày mình. Như thế có nghĩa: thánh-nhân đã có được niềm tin-yêu của con người quả cảm dám tuyên xưng Thày là Chúa và là Thiên Chúa của người Do thái. Và khi ấy, thánh-nhân đã tiếp cận Thày mình, bằng niềm tin.
            Ở đây, hẳn ai cũng thấy một sự thể cũng hơi lạ. La, ở chỗ: sao ta cứ gọi đó là nỗi sợ sệt? Sợ, là sợ ai? Sợ gì? Phải chăng giới cầm quyền Do thái lúc ấy cũng hãi sợ? Họ sợ hãi, thoạt khi khám phá ra Đức Giêsu và đồ đệ Ngài? Là quan, như đấng bậc Philatô mà cũng “sợ”. Ông sợ điều gì? Phải chăng họ đã bắt đầu sợ Đức Giêsu khi Ngài thực sự đã chết?
Nhưng sao họ lại cứ “sợ” một người Do thái bình thường nay chết rồi? Và, đồ đệ Chúa cũng vì “sợ người Do thái” nên mới tụ tập trong phòng có “cửa đóng then cài”, rất cẩn thận! Có lẽ đệ nào đó đã phá vỡ bầu khí yên lặng trong phòng, nên mới lên tiếng: “Tôi e Thày mình chết thật rồi!” Lại có vị cũng sẽ bảo: không phải thế! Có vị khác, lại cứ nói thẳng ý nghĩ mình từng giấu kín rồi mới bảo: “Chắc tôi phải về thôi, nhưng biết ăn làm sao nói làm sao với người Galilê, bây giờ? Tôi e rằng mình cũng phải cho mấy người ấy biết là tôi đã bỏ chạy! Và nếu tôi báo cho họ biết Thày mình đã trỗi dậy từ cõi chết, tôi sợ những người như họ sẽ bảo tôi khùng, thế mới khó!”
            Chắc hẳn có vị tông đồ nào đó vẫn còn “sợ” nên mới bảo: “Họ đã giết được Thày mình, thì sá gì lại không ra tay với anh em mình chứ? Chắc rồi, họ cũng rớ tới anh em mình thôi!” Có điều lạ, là: Chả ai chú ý đến cuộc sống của đồ đệ Chúa, ngoại trừ Đức Giêsu thôi. Nên, có thể cũng có vị nào đó vẫn nghĩ bụng: “Giá tôi không có mặt ở hiện trường này, hôm nay, cũng đâu đến nỗi phải sợ thế này!”
            Một điều khác lạ nữa, là: Đức Giêsu đã trỗi dậy từ nỗi sợ sệt của ta nữa! Giả như, Ngài đến với ta, hôm nay, trong hoàn cảnh này, chắc hẳn cũng có người vẫn “sợ” đấy chứ? Sợ gì và sợ ai? Có ai là người Do thái ở đây mà ta phải sợ, chứ?
            Nói cho cùng, mỗi người và mọi người đều có nỗi lo ngại và hãi sợ nào đó. Sợ, cái chết đang từ từ trờ đến, với mình? Cũng có thể là: khi nghe tin bạn bè/nguời thân vừa qua đời, cũng chẳng ai sợ sệt nỗi gì, vì đâu nào liên can đến mình. Nhưng, nếu biết rằng: rồi cũng sẽ đến lượt mình phải chết như người ấy, hẳn mình cũng có nỗi “sợ” nào đó, đâu biết được! Bởi thế nên, nỗi sợ và cái chết thường sánh đôi rất nhịp nhàng. Chả thế mà, mọi người ở đời thường lại cứ la hoảng lên mà nói: “Sợ chết mồ!” Vậy thì, “sợ” là điểm đến nhằm kết thúc sự sống của ta, hôm nay hoặc mai ngày.
            Nếu có một ngày nào đó, ta trỗi dậy từ cái chết của chính ta, thì điều trước tiên ta cần làm, là: làm sao trỗi dậy khỏi nỗi “sợ”. Người trỗi dậy, phải chứng tỏ được điều ấy cho riêng mình. Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cái chết của Ngài. Và, trên nguyên tắc, Ngài cũng trỗi dậy khỏi cái chết của chúng ta nữa. Nay, có thể là: Ngài vẫn thực sự trỗi dậy từ bên trong nỗi sợ của ta, để giúp ta loại bỏ nỗi “sợ” ra khỏi chính mình. Vì thế nên, cảnh Phục Sinh ở trình thuật hôm nay cho thấy Đức Chúa đã trỗi dậy. Trỗi dậy rồi, Ngài đã và vẫn “đến ở giữa” mọi người, thế nhưng mọi người chẳng ai đả động gì đến chuyện ấy, tức: chẳng ai quan tâm đến sự thể là Chúa đã và đang “đến ở giữa” ta và mọi người, rất nhất mực.
            Thiên Chúa còn làm hơn thế nữa. Ngài vẫn sống, không biết sợ. Với thế giới có sự sống đã trỗi dậy, thì không còn nỗi “sợ người Do thái” nữa; và cũng chẳng còn tình huống để ta sợ bất cứ ai. Bởi, tất cả đều đã tập trung nơi Ngài. Tất cả đã đặt tin tưởng nơi Ngài rồi, ta còn sợ chi.
            Kể từ hôm nay, ta lại đã nhận ra rằng: chẳng nỗi “sợ” nào là tuyệt đối hết. Sợ, là do con người tưởng như thế, mà thôi. Bởi còn sợ, nên các thánh tông đồ mới vào phòng họp/nguyện cầu ở trên lầu vẫn “cửa đóng then cài” rất cẩn thận. Nhưng thực tế, đã có Chúa “đến ở giữa” ta và mọi người rồi, sao ta lại cứ sợ? Sợ Chúa ư? Chắc chắn mọi sự sẽ không phải thế, và không như thế, bao giờ.
            Để loại bỏ tâm tình còn hãi sợ, ta sẽ hiên ngang ngâm tiếp ý/lời của nhà không  biết sợ, mà rằng:

            “Tôi tự nguyện sẽ một lòng chung thủy,
            Qua những lần buồn tủi giữa đảo điên.
            Thân xương máu đã đành là ủy mị,
            Thì xin em cùng lên thác xuống ghềnh…”
            (Bùi Giáng – Phụng Hiến)
      
            Đã đành, người nhà Đạo cũng “lên thác xuống ghềnh”, “ủy mị” như nhà thơ, nhưng không sợ. Sợ sao được, vì có Chúa “tự nguyện sẽ một lòng thủy chung” khi Ngài trỗi dậy rồi nay “đến ở giữa” mỗi người và mọi người. Khắp mọi nơi.   

            Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –
Mai Tá lược dịch

Saturday 23 March 2013

“Hãy áp môi trên phiến đá mòn,”



Suy niệm Lời Ngài đọc vào Lễ Phục Sinh năm C 31.3.2013
“Hãy áp môi trên phiến đá mòn,”
“Loài hoa mộ chí cánh thoa son.”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Ga 20: 1-9; Lc 24: 13-35
Phiến đá mòn, nay bật nắp để lộ “Loài Hoa Mộ Chí” vẫn còn sống. Hoa Mộ Chí, đã trỗi dậy tỏ bầy cho mọi người biết Chúa vẫn ở với anh và với em suốt mọi ngày. Trình thuật thánh Luca kể về tâm tình ngày Chúa Sống Lại đã chuyên chở cùng một tâm tình, giống như thế.
Trình thuật Phục Sinh, các thánh đã thấy dấu hiệu của bình minh xuất hiện trên bầu trời ở phía Đông. Nhưng, không để báo hiệu một ngày mới sẽ nối tiếp, cho bằng nói lên loại hình tạo dựng rất tân kỳ. Tân kỳ, là ở chỗ: nếu hỏi mọi người: theo họ, Đức Giêsu giống loại người nào khi Ngài sống lại từ cõi chết, hẳn sẽ có người bảo: Ngài giống nam-hoa-hậu Vũ Trụ.Và sẽ có nhà tâm-lý-học nào đó cũng đặt câu hỏi: quý vị lấy ý tưởng này ở đâu ra? Phải chăng nói thế là muốn mình được như vậy?
Xưa nay, Kinh Sách và nhất là thư thánh Phaolô đem đến cho ta câu trả lời rồi. Kinh Sách ám chỉ rằng: Đức Giêsu đem nhữngđiều về nỗi chết của Ngài đưa vào sự sống đã trỗi dậy. Như thế có nghĩa: Ngàiđã duy trì những thứ đó và biến nó thành một thứ gì tích cực, lành lặn để rồi Ngài tháp nhập tất cả mọi người vào con người của Ngài. Phục sinh, không là chuyện lấy nước nóng tẩy sạch mọi bợn nhơ trên mình Ngài và loại bỏ những gì đến với Ngài trong đau khổ và nỗi chết; tức: thứ gì đó đối chọi giữa sự chết và sống lại. Bởi, cả hai đều tuỳ thuộc lẫn nhau thành từ ngữ để ta hiểu.
Thánh Phaolô sáng chế ra cụm từ “Đức Kitô-chịu đóng đinh” có gạch nối ở giữa. Và khi nói đến Đức Kitô, là thánh-nhân nói về Đấng đã trỗi dậy. Và khi nói đến Chúa trước ngày Ngài Phục sinh, là thánh Phaolô lại đã gọi Ngài là Đức Giêsu. Ở tiếng Hy Lạp, thánh-nhân dùng cụm từ “estauromenos” bên cạnh tên tuổi “Đức Kitô”, tức có chữ gốc “Stauros” mang ý nghĩa của thập giá. Nên, cụm từ này có nghĩa: giá trị của thập giá và nỗi chết được viết chung vào sự “trỗi dậy” trở thành “Đức Kitô-Phục Sinh”.
Ở đây, ta nói đến giá trị của chữnghĩa hoặc triển khai bản vị mà Đức Giêsu cảm nghiệm thực sự khi Ngài chịu đóngđinh trên thập tự, chắc chắn Ngài không thể nào cảm nghiệm khác hơn thế. Tức, cảm nghiệm ấy không biến mất đi khi Ngài sống lại. Tất cả vẫn gồm tóm nơi Ngài,đóng ấn trong Ngài và sẽ còn kéo dài đến vĩnh cửu. Tất cả là thành phần gói gọn trong ý nghĩa đó.
Điều này còn có nghĩa: khi trỗi dậy từ cõi chết, ta không gỡ bỏ được những gì xảy đến trong cuộc sống khổ đau hoặc kinh nghiệm mà cái chết mang đến cho ta. Kết quả là, ta đã trở thành con người khá hơn, tốt lành hơn. Và, sự trỗi dậy vẫn cứ duy trì hết mọi thứ và khiến cho chúng rõ ràng hơn vào mọi lúc.
Có người còn gọi Đức Kitô-Phục sinh là Đấng có “dấu thánh” đặc biệt. Nhưng, điều đó không có nghĩa: vết thương thân mình Ngài vẫn nguyên vẹn hình dạng trên Ngài cách thể lý. Nhưng ý nghĩa đích thực, là trọn vẹn con người và bản thể Ngài vẫn còn ghi dấu khổ đau Ngài canh cánh bên lòng, vì yêu thương người phàm.
Đức Mẹ cũng thế. Khi Mẹ về trời bằng vào Phục sinh, ta cũng thấy được nơi Mẹ tất cả những gì Mẹ lãnh chịu do tình thương yêu còn đó, theo cung cách nào đó, không là thể lý, xác phàm mà là giá trị thần khí nơi bản vị của Mẹ. Chính vì thế, mà thánh Phaolô lại nói về tình trạng chết chóc, trống rỗng của Đức Giêsu -tức “kenosis” tiếng Hy Lạp- và thánh-nhân coi sự việc ấy cũng một dạng theo thể trạng của Đức Kitô-Phục Sinh. Điều này làm ta cảm kích và suy ra rằng ta đi vào với hỗn độn như tình trạng của nỗi chết hoặc những gì tương đương, nhưngđược gộp vào tình trạng trỗi dậy sống động của Chúa.
Đó là lý do khiến ta nói đến Đức Kitô-Phục sinh, tức: Ngài hiện diện trong vũ trụ. Ngài không chỉ ở với chúng ta, mà còn như Đấng đã vượt khỏi ta nữa. Ngài trỗi dậy trong ta và ở trong trạng thái có nỗi chết của chúng ta. Ngài sờ chạm và chữa lành mọi khốn khó do bạođộng của vũ trụ. Ngài là Đức Chúa chữa lành hết mọi người, mọi vật.
Ngài đã vuợt quá giới hạn không gian và thời gian trong vũ trụ của ta. Ngài không ở ngoài không gian và thời gian như thế, nơi vũ trụ. Ngài ở trong tất cả. Trỗi dậy với ta và trong ta, đã là tất cả. Đó là hiện hữu bí nhiệm, tuyệt diệu. Chính đó là sự thực của hiện hữu. Sựthực ấy, còn thực tế hơn cả mọi hiện hữu ta cảm nghiệm được với nhau, trong nhau. Ta không cảm nghiệm sự thể giống như thế và như thế là do giới hạn của không gian và thời gian ta đang sống cho đến ngày đi vào cõi chết.
Đến ngày đi vào cõi chết, ta được cởi bỏ khỏi mọi giới hạn của thời gian và không gian. Và khi đó, toàn bộ hữu thể của ta sẽ tràn ngập kiến thức và tình thương yêu đối với Đức Kitô-Phục sinhđang trỗi dậy trong ta. Nói cách khác, ta đang được sẻ san với sự Phục sinh của chính Ngài.
Đức Giêsu trỗi dậy khỏi nỗi chết, Ngài cảm nghiệm theo tính chất người phàm mọi hiểu biết về chính Ngài, về Cha và về tất cả chúng ta, theo cung cách Ngài chưa từng làm thế, trước đó. Ngài biết rõ chính Ngài, biết Cha và biết chúng ta theo cung cách rất mới mẻ. Khi ta chết và trỗi dậy ở trong Ngài, sự thể cũng sẽ hiện ra như thế đối với ta.
Thế nên, Phục Sinh là lễ hội của sựtrỗi dậy nơi Ngài và nơi ta. Phục Sinh, là chân trời căn bản ta được mời gọi sống trong đó. Không có chân trời nào khác lại có thể đối đầu với bí nhiệm của sự chết đến như thế. Và, đó là cung cách đầy chết chóc để mà sống. Toàn bộ sựsống động của ta, nay mang ý nghĩa một trỗi dậy. Không chỉ là sự sống động trong Hội thánh, mà thôi, nhưng cả sự sống động theo cung cách phàm trần nữa.
Ta hiểu được mình sống trong sự nhận thức rất chắc chắn rằng không ai bị loại bỏ khỏi sự sống có trỗi dậy. Không có vấn đề để bảo rằng: không gì được chữa lành mà không đi vào sự sống có trỗi dậy. Không vết tích nào của sự sống lại mà không kết thúc trong sự sống có trỗi dậy được. Điều đó giúp ta thực hiện chữa lành bạo lực và nỗi đớn đau, sầu buồn của người đồng loại trong thế giới thực tại ta đang sống cùng và sống với.
Phục sinh là viễn tượng của niềm tinđang sống thực tại, trong hiện tại. Ta không chỉ tin rằng Đức Giêsu đã trỗi dậy khỏi mộ trống mà thôi, nhưng còn tin rằng ta có thể ra khỏi con người mình, ngay lúc này. Đó mới là niềm tin. Chính đó mới thực sự là tin và kính một niềm tin chính đáng.
Trong cảm nghiệm niềm tin như thế,cũng nên ngâm tiếp lời thơ đã cất lên từ đầu, rằng:
“Hãy áp môi trên phiến đá mòn.
Loài hoa mộ chí cánh thoa son.
Vầng trăng đáy huyệt xanh trong mắt.
Nghe biển mưa sao, gió gọi hồn.”
(Đinh Hùng – Trái Tim Hồng Ngọc)
Biển mưa sao, gió gọi hồn, là hiện tượng Chúa cùng ta trỗi dậy. Trỗi dậy trong Phục sinh thực tiễn vẫn rất thực, ởchốn đời thường.
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –
Mai Tá lược dịch

Saturday 9 March 2013

“Em còn đó, xoã lòng đêm tóc rối,”



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần Thứ Năm Mùa Chay năm C 17.3.2013

“Em còn đó, xoã lòng đêm tóc rối,”
“Tôi đứng đây bụi lốc mịt mù xa.”
 (Dẫn từ thơ Vương Ngọc Long)
Ga 8: 1-11
Tóc vẫn rối, chắc hẳn lòng em cũng thêm rối? Rối tơi bời, nhưng người đời chẳng bận tâm. Thế đó, một tâm tình nhiều ý nghĩa đã thấy nơi trình thuật thánh Gioan viết hôm nay.
Trình thuật thánh Gioan nay viết, là viết về nữ phụ nọ bị cho là lăng loàn, tội lỗi, rất ngoại tình. Trình thuật hôm nay, là một trong các đoản khúc độc đáo của thánh Gioan, chỉ xuất hiện vào thế kỷ thứ 3, mà thôi. Các nhà chú giải kinh thánh cho rằng: đoản khúc này do cộng đoàn Luca thời tiên khởi đã đưa vào văn bản của thánh Gioan, vì lầm lẫn. Cũng có thể, các vị chép Tin Mừng lại cứ nghĩ Đức Giêsu xử tội nữ phụ ngoại tình ở trình thuật hơi nhẹ tay, dù kinh điển luật Do thái có ghi rõ.
Rõ ràng, trình thuật nay cho thấy cộng đoàn xét tội loạn luân chỉ mỗi nữ phụ thôi chứ không bắt giữ người đồng phạm. Loạn luân hay ngoại tình, đâu là hành xử chỉ một mình. Đây, rõ ràng có bất công, kỳ thị và thành kiến. Nữ phụ trong truyện, vẫn đại diện cho lớp người bị xã hội cổ xưa chê trách, phỉ báng, không chấp nhận. Xã hội mọi thời lại cũng coi thường, kết tội và chối bỏ phụ nữ dưới trướng mọi nam nhân.
Xã hội Do thái còn cách ly, bỏ tù và trừ khử các nữ phụ, để giữ mặt cho phe nhóm của họ. Trình thuật hôm nay, cho thấy: bằng vào việc sẻ san nỗi tức bực của kẻ giả hình và biến chuyện sống cung cách giả hình thành luật đối với cộng đoàn ở đó. Thế nên, phụ nữ xã hội này vẫn bị sử dụng cho mục đích tựa như thế. Và lần này, người đọc cũng như người kể, đều chuốc vào mình sự tức bực, giận hờn của phe nhóm/xã hội thời buổi ấy. Đó, còn là động thái của người sống vào thời buổi trước. Thế còn, xã hội hôm nay thì sao? Xã hội, nay thấy khá nhiều hành xử bất công với phụ nữ, vẫn không dứt.
Xưa nay, phụ nữ luôn là nhóm người không những thiệt thòi đủ điều, lại bị dồn vào chân tường khiến họ phải sống bên lề xã hội. Như di dân/người ngoại cuộc, phụ nữ không đủ tư cách để có được vai vế đáng kể trong bất cứ cộng đoàn nào ở Do thái. Họ bị coi như hiện thân của nỗi nhục phải sống trong xã hội do nam nhân khống chế, toàn trị. Trình thuật, nay còn mô tả nhóm người kết án nữ phụ phạm lỗi ngoại tình, họ đều là nam nhân. Không thấy trình thuật kể tên của nữ lưu nào trong đám người lên án hoặc xét xử chị ta hết. Sở dĩ, nữ phụ hôm ấy bị coi là có tội vì chị đã phạm vào niềm tin của mọi người về hôn phối. Và, một lần nữa, vụ xử riêng chị lại được đem ra ánh sáng, trước chúng dân toàn nam giới là để gài bẫy xem Chúa xử thế nào.
Sách Đệ Nhị Luật đoạn 22 đòi bất cứ nữ phụ nào phạm tội ngoại tình đều bị đem ra ném đá cho bằng chết. Thời Chúa sống, giới cầm quyền La Mã chừng như đã truất bỏ quyền hạn của người Do thái không được phép lên án chết trong trường hợp tương tự và một vài trường hợp khác giống như thế. Bởi thế nên, khi Chúa bảo: “Ai nghĩ mình vô tội hãy ra tay trước đi…” là Ngài tự đặt mình vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” hoặc chối bỏ luật Môsê hoặc đả phá luật của La Mã. Nếu làm như thế, hẳn Ngài tỏ cho thấy Ngài cũng khát máu như nam giới trong làng đòi Chúa giữ cả luật Do thái, La Mã và lệ làng của vua quan tự cho mình có văn hoá, văn minh?
Xem thế, thì ở đây có đến hai phiên xử: một phiên xét tội nữ phụ bị lên án chết do đám người cho rằng chị đã phạm luật. Còn, phiên kia đặt Chúa vào tình thế xét nghiệm, thử phổi để xem sao. Giả như Chúa không trả lời được vấn nạn do họ đặt ra, hẳn Ngài cũng bị xử chết hệt như nữ phụ ấy. Nếu quả đúng thế, thì thiết tưởng cũng không nên gọi nữ phụ nọ là người “bị bắt quả tang phạm pháp”, mà chỉ nên coi chị như người bị án tử đang chờ ngày hành quyết. Hai phiên xử, được nghệ nhân tên Lucas Cranach vẽ lên hình ảnh giống như tranh của Rembrandt về người con đi hoang, nay trở về. Cả hai bức tranh, được trưng bày tại bảo tàng viện St Petersburg cốt để giúp mọi người có chất liệu mà suy tư vào mùa Chay.
Bức tranh đây cho thấy: đám nam giới chủ toạ buổi xử đã kế án nữ phụ nọ vì chị vi phạm tội đáng chết, nhưng họ vẫn chờ Chúa cho ý kiến, để còn tính. Trong khi đó, Ngài lại bảo: “Ai nghĩ mình vô tội hãy ra tay trước đi...” Theo lệ làng, vị cao niên nhất sẽ ra tay ném đá trước; nhưng ở đây, vị ấy lại là người đầu tiên rút lui có trật tự, để mọi người cũng dấn bước, tiếp theo sau. Và, vụ xử bị đình chỉ, vì chẳng ai ra tay giải quyết, nên án này bị huỷ. Còn lại tại hiện trường chỉ thấy mỗi Đức Giêsu và tử tội, tượng trưng cho niềm khổ đau và lòng thương xót. Nhưng hỏi rằng: sự thể như thế có là đau khổ hôm nay không? Và, lòng Chúa xót thương vẫn là sự thương xót, suốt mọi thời đấy chứ?
Lại nữa, điều gì xảy đến trong lòng người nữ phụ buổi hôm đó? Và, nếu bảo rằng chị biết mình đã làm quấy, nên không cần ai nói cho chị biết gì thêm; và không chối bỏ điều đó. Chị thêm mỗi lo: sao là phụ nữ, chị bị coi như trò đùa của thiên hạ, về mọi việc. Chị không thấy căng thẳng, cũng chẳng đắng cay/khổ não mà chỉ mong sao để không còn nhớ chuyện cũ, và được ân xá. Chị là nữ phụ bị công luận ghen ghét, dè bỉu vì biết rõ tội trạng của chị. Họ không giết chị ngay lúc đó, nhưng chị cũng không thể sống với họ ở xã hội hoặc nơi nào mà câu chuyện về chị vẫn tiếp tục được kể cho thiên hạ nghe.
Theo tầm nhìn của xã hội cứ vin vào lề luật, thì chị như người đã chết hoặc người mắc nợ xã hội, mãi thiên thu. Chị khác nào người cùi/hủi bị đẩy lùi khỏi chốn dân gian sinh sống, giống những người không chốn dung thân. Nói tóm lại, vì họ, mà chị nay không thể quên những chuyện do xã hội của nam giới chuyên khuynh loát, khống chế phụ nữ. Dù có ai khuyên chị hãy quên đi chuyện như thế, có nhớ cũng chẳng làm được gì, nhưng chị thuộc lớp người không thể quên được chuyện có liên quan cả đời mình. Và những người xét xử cũng không quên được tội trạng của chị nữa. Thế nên, chị thấy không có lối thoát, và chẳng có gì giúp chị ra khỏi ngõ bí.
Nhưng, có một giọng nói trước nhất không nói tất cả mọi sự cho chị biết, mà chỉ cho người lên án Chúa thôi. Sau đó, mới hỏi chị xem có biết và có hiểu rằng: chẳng ai lên án chị hết! Và giọng ấy còn cho chị biết rằng: Đức Chúa lòng lành không bao giờ lên án chị. Theo cách nào đó, điều này nghĩa là chị đã được thứ tha, trước khi những người kết án chị bỏ đó mà đi. Tận tâm can, chị biết Chúa không lên án chị. Và, ngay khi ấy, chị đã biết tội/nợ của chị đà biến mất. Đó là quà tặng vượt quá những gì chị đáng được hưởng. Việc này không mang tính hữu lý theo người phàm, nhưng là điều rất mới, thuộc trật tự khác còn mới hơn. Nó như bài ca mới; và chị được mời để cùng mọi người hát lên bài ca mới ấy.
Trình thuật kể rằng Chúa có viết điều gì trên đất, nhưng thực sự Chúa chưa từng viết điều gì thành kinh điển và có lẽ hôm ấy Ngài cũng chỉ quệt quệt đôi vạch chứ chẳng viết chữ gì. Tự trung thì, người kết án chị đã phản ánh tội của chị vào văn bản của Chúa, rồi bỏ đi là vì thế. Sự việc như thể, hôm ấy, có đường lối mới rất tích cực về thứ tha đã trực chỉ người nữ phụ tội phạm như chị. Tha thứ đến với chị trong khi mọi người bỏ đó mà đi mang theo mọi hờn giận, ghét ghen, chẳng tha thứ.
Sự thể xảy ra hôm đó, là: có điều gì đó chưa từng xảy ra hôm trước, nay đã đến. Đó là quà tặng từ Đấng chưa thể hiện vào hôm trước, và cũng chưa có mặt ở hiện trường xử án, đầy vỡ đổ. Điều mới đó gọi là tha thứ. Tha thứ lớn hơn mọi sự ở thế trần. Tha thứ dẫn con người ra khỏi chính mình, vẫn khổ đau, đóng kín. Tha thứ lớn hơn sự công chính, hữu lý và hữu tình. Một thứ mới mẻ khiến con người thấy có sự sống sinh động và tình thương yêu, cũng rất lớn. Đó là tha thứ mà không ai vi phạm, sờ chạm được.
Dân con Hội thánh chưa hiểu sự mới mẻ này được là bởi giới chức có trọng trách dẫn dắt Hội thánh lại cứ giảng rao quá nhiều ‘sự’ về án chết, lỗi tội và khổ đau như ném đá cho chết. Có lẽ Hội thánh nay cần thứ gì đó to tát hơn để ta có thể học hỏi yêu thương từ nữ phụ phạm lỗi nay được tha nên đã yêu.
Nữ phụ ấy là ai? Phải chăng là bà Susannah ở Cựu Ước? Phải chăng nữ phụ kể ở trình thuật hôm nay là tổng hợp giữa người nữ thành Samaritanô và người mù bẩm sinh? Cũng có thể là một Ladarô ở trong mồ, tức nhân vật chính trong phụng vụ mùa Chay này chăng? Nữ phụ trong trình thuật phải chăng là biểu tượng của những ai từng bị đào thải, vì đã làm những việc theo cung cách khác hẳn xã hội từng chỉ vẽ bằng luật? Trả lời câu hỏi này, hẳn ta sẽ hiểu được ý chính của tác giả khi viết trình thuật hôm nay.
Trong cảm nghiệm tinh thần đó, cũng nên ngâm lại lời thơ vừa trích dẫn, rằng:
            “Em còn đó, xoã lòng đêm tóc rối,
            Tôi đứng đây, bụi lốc mịt mù xa.
            Nghìn mắt lá đang nhìn tôi ái ngại,
            Đêm nguyệt quỳnh hoá nở kiếp phù hoa.”
            (Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)
“Đêm Nguyệt Quỳnh”, chắc chắn không là đêm của tình thương yêu/tha thứ như nhà thơ hiểu. Nhưng, vẫn là đêm tuyệt diệu cho nữ phụ ở trình thuật và cho tôi, là người lâu nay vẫn hưởng nhờ ơn tha thứ từ Đức Chúa, rất lòng lành. Thế đó, là lời đáp trả của lời thơ vương vấn ở đâu đó, rất trong đời.           

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –
Mai Tá lược dịch

Saturday 2 March 2013

“Cha mẹ sinh tôi, thằng con bất hiếu,”



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần Thứ Tư Mùa Chay năm C 10.3.2013

“Cha mẹ sinh tôi, thằng con bất hiếu,”
“thề thốt thương người hơn cả song thân.”
 (Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Lk 15: 1-3, 11-32
Con bất hiếu, đâu cứ là con đi hoang, như truyện kể Tin Mừng người người vẫn hiểu những điều thánh Luca muốn nói. Trình thuật thánh Luca nói, nay kể không có ý kể về chàng trai đi hoang hoặc tình thương của bậc vua cha ở nhà mà thôi, nhưng là về chàng trai trẻ từng can đảm đã thành công bước vào tuổi trưởng thành, như anh mình. Truyện hôm nay, là truyện gia đình có hai người con ngỗ nghịch, khó hội nhập chòm xóm, rất cộng đoàn.
Truyện vào đầu bằng sự thể hai người con chưa có đời sống riêng nên vẫn như con trẻ sống trong thế giới hài hoà/khép kín, trong gia đình. Hoàn cảnh gia đình hết hài hoà, khi người em bắt đầu có sáng kiến mới, đòi chia chác phần gia sản và muốn có ngay lập tức. Muốn sống biệt lập, phá vỡ cảnh sống quây quần ở gia đình để ra riêng, tự lập. Anh coi cha mình như đã chết để thực hiện mọi chủ đích. Anh muốn cha chia gia tài rồi xa chòm xóm để lên phố. Điều này như cú sốc đánh động hết mọi người.
Người cha hiền đã thuận ý anh, để anh rời nhà, mà đi xa. Anh chống trả mọi thứ nên nề nếp, chẳng muốn giống cha điểm nào, lại muốn xoá bỏ mọi vết tích để cha mình không còn cách nào tìm lại anh. Anh tiêu tán hết số tiền cha gom góp cho anh; lại chối bỏ mọi nguyên tắc/lý tưởng học từ cha minh, cứ tự ý bước đi cho cuộc đời mình. Vẫn cứ muốn mình là chính mình, rất độc lập/độc đáo, chẳng giống ai. Chẳng bao lâu, cả thôn làng đều biết chuyện. Phố xá xa vời là nơi cuốn hút người trẻ từ miền quê. Chòm xóm bắt đầu đóng kín cửa không chơi với gia đình anh, sợ bị lây nhiễm, như cùi hủi.
Trong một lúc, mọi việc xảy đến khá tốt đẹp. Anh thực hiện được nếp sống theo ý mình cho đến lúc tiền cha cho cũng đã cạn. Kinh nghiệm sống anh tạo được lại không thuận theo ý muốn, anh đã bắt đầu cảm thấy rối trí, rối cả bụng dạ đến cồn cào, đói khát. Anh cần có cái bỏ vào miệng, chợt nhận ra rằng hồi còn ở nhà anh muốn ăn lúc nào cũng có, nhưng với giá phải mất đi tự do và độc lập. Và, cả với giá phải sống như người con tốt bụng. Là nông gia, anh đã cảm nghiệm một đối chọi với lối sống thành thị, khiến anh ngã quỵ.
Anh giáp mặt thực tế rất phũ phàng. Anh cứ nghĩ mình sẽ “mãn nguyện” về thực tại toàn hảo mà anh có thể tạo cho chính mình. Trong thời gian cứ thế vung tiền sống trác táng, truỵ lạc để chứng tỏ mình bất cần đời, những đời cần mình mới phải. Nhưng thực tại đã chứng minh đời người không phải thế. Anh khám phá ra cuộc đời vẫn có những giới hạn đề ra cho chính anh. Đôi lúc, anh cũng nói tiếng “Không” cho những gì mình ao ước, cho đường lối sống do anh tưởng tượng. Nhưng đường và lối rất khó đi, khó sống. Mọi người, ai cũng học biết được điều ấy bằng những kinh nghiệm đôi lúc cũng đắt giá.
Chàng trai trẻ nay đã biết học. Học cách tôn trọng lòng ao ước bên trong con người mình vẫn thôi thúc anh rời khỏi cung lòng ấm áp của quê nhà và tìm cách sống theo kiểu riêng tư của chính mình. Nhưng, anh cũng đã học được cách biết tôn trọng sự thể là mọi việc không dễ như thế. Và có lúc anh thấy anh cũng phải thắt chặt lưng bụng với những đòi hỏi ra như quá đáng. Anh bắt đầu nhận ra thế nào là “trưởng thành, chín chắn khi sinh sống. Vẫn không là những gì anh từng tưởng tượng.
Anh cũng bắt đầu tự hỏi: nếu cha mình cũng học được điều này khi ông còn trẻ. Có lẽ cha anh cũng hiểu, từ kinh nghiệm riêng tư của ông khi khôn lớn, giống như anh. Có lẽ cả cha và anh đều giới hạn, không chế những đòi hỏi của mình. Thế mới là con người thực. Và, anh chẳng bao giờ biết rằng cha mình cũng từng như thế. Và, anh quyết định đến với cha anh để tìm ra những gì anh chưa biết hết. Anh nghĩ anh có thể tình nguyện làm gia nhân, người làm mướn. Như thế, anh sẽ không tuỳ thuộc vào cha một lần nữa. Anh những muốn sống bằng đồng lương riêng của mình, sẽ là người đích thực. Làm thế, đâu có nghĩa ‘sám hối” đích thực. Mà chỉ để biết rõ thực tế và biết rõ mọi người theo cung cách rất khác.
Anh cũng nghĩ: nếu về với Cha sẽ bị chối bỏ, vì anh đã rời bỏ “người cha kỳ quặc” mà anh biết chắc ông có sẵn mọi câu trả lời, khi anh hỏi. Và, anh đang khám phá ra “người cha đích thực” mà thực sự anh chưa hiểu biết hết, tức như người lớn, với người lớn. Anh cũng chẳng rõ điều đó có nghĩa gì.
Nhưng trong lúc anh “còn ở đằng xa, thì cha anh đã nhận ra anh”. Người cha cứ thế chạy đến, dù người cha ở phương Đông, lại không có thói quen chạy như thế, để đến ôm chầm lấy con, rồi hôn lấy hôn để. Cũng lại là chuyện lạ kỳ ít ai ngờ tới, như cú sốc cho anh. Người cha lấy hết sức để đến với con mình. Đó là dấu hiệu để chào mừng, nhưng cũng là dấu chỉ để dân làng biết rằng con người mới đã sống lại và lớn lên phía đó, và anh xưa vẫn là thành phần của xóm làng, nay đã khác.
Người cha nhận ra rằng con mình nay đã lớn. Cha kêu gọi đem quần aó mới cho con và tổ chức tiệc chào mừng cho con ông. Làm việc ấy, không có nghĩa là công việc đầy tính “sám hối”. Bởi, người cha nay đồng thuận khi thấy tính khí rất đáng quý trọng ở con mình. Ông muốn có quan hệ giữa người cha đã trưởng thành đối với người con cũng trưởng thành. Đó chính là quan hệ rất mới giữa hai người, cha và con. Quan hệ này, cũng rất đáng để tất cả cử hành mừng kính.
Ta không chọn những ai đem ta vào với thế giới naỳ. Tuy nhiên, muốn có được “người cha” theo nghĩa trọn vẹn, ta cũng phải chọn như thế, lúc về sau. Cùng một cung cách như thế, cha cũng phải chọn con mình. Là cha, không chỉ có nghĩa về thể chất xác thịt thôi, nhưng là nhận biết có trách nhiệm về người con do mình sinh ra, thừa nhận con mình chính là con theo nghĩa đích thực.
Truyện kể của thánh Luca luôn có hậu, tức luôn đặt nặng quan hệ cha–con. Có những truyện kể không có hậu. Nhiều người con đi hoang, khi trở về, không thấy được là người cha có trưởng thành, chín chắn như người cha hay không, hay là chỉ mỗi con trai mình thôi. Nhiều người cha trưởng thành ngang qua việc con cái cách ly khỏi gia đình, và thấy rằng con cái mình không trưởng thành theo cùng một cách thức như mình. Thật đáng buồn, và đau lòng. Đó cũng là giai đoạn khác trong trưởng thành, tức trong cung cách ổn định thực tại.
Làng xóm cũng thế. Họ nhận ra được người con trai là thành viên trong làng. Dưới con mắt của họ, cả người con đi hoang lẫn người cha hiền đều đáng xấu hổ. Nhưng cả hai đã chung thủy với gia đình. Người cha và cả gia đình đã mở tiệc chào đón người con đi hoang nay trở về với gia đình và làng xóm. Cả làng ăn mừng bằng bê béo. Cả làng cùng kéo đến ăn mừng. Nhưng sẽ hỏi rằng, hai cha con  có ngây ngô vẫn sống theo kiểu trước đó chứ? Người trong làng có cần biết những gì mà thành thị lẫn phố chợ đã và sẽ làm cho con người không? Dân làng có cần coi chuyện đoàn kết cách thiển cận như chuyện đã qua, rồi bỏ không?
Thái độ của người anh thì sao? Anh tượng trưng cho sự đúng đắn, trong hệ thống rất đóng kín. Anh chẳng làm điều gì sai trái, bởi anh có bao giờ làm gì đụng chạm đến đời mình đâu. Anh vẫn là con trẻ. Vẫn nổi nóng, tách rời không làm thành viên gia đình và làng xóm. Cuối cùng thì, anh vẫn có phần gia tài của anh khi người em lấy đi phần của hắn. Anh không cùng xóm làng tham dự tiệc mứng đón em. Anh chọn đứng xa, ở ngoài. Anh từ chối chào mừng thực khách, chẳng giúp vui cho bất cứ ai. Cha anh, vì quá mệt về tình cảm đã nài nỉ anh, nhưng anh kết án cha những điều không đúng. Anh vẫn ở lại trong nỗi giận rồi tự hỏi sau này mình già thì cha và em có coi sóc mình không? Và người cha bất chấp tính tình kỳ quặc của anh lớn không rộng lượng thủy chung với tình gia đình.
Bắt chước Giám Mục Helder Camara, có lẽ ta cũng nên nguyện cầu khi nghe kể truyện người con đi hoang như thế. Cũng cứ cầu cho mọi người con thấy khó lòng mà trưởng thành, chín chắn. Cũng nên cầu cho thế hệ trẻ không dám mạo hiểm để lớn lên, để trưởng thành trong chính chắn. Cũng nên cầu cho các bậc cha mẹ vẫn xem xét và nguyện cầu và ở đâu đó khi sự việc diễn ra.  Cầu mong sao, ngày nào đó tất cả đều sẽ đến với nhau và cùng ăn mừng cho người con nay trưởng thành trong chín chắn và cả người anh cũng biết đối xử cho đúng đắn mà tham dự.
Trong tinh thần cảm kích truyện kể rất ý nghĩa, tuởng cũng nên ngâm nga lời ca còn chưa dứt:

            “Tôi vẫn đợi, đợi thêm người chút nữa
            Tự an ủi mình khi cắn nỗi sầu đau
            Tình một hai năm… chưa bạc mái đầu
            Chưa tuyệt vọng bởi vì chưa hy vọng…”    
            (Nguyễn Tất Nhiên – Tình Một Hai Năm)

“Tự an ủi”, “cắn nỗi sầu đau”, có thể là tâm trạng của người sống rất đúng luật nhưng lại không dám mạo hiểm để trưởng thành, như người anh trong truyện. Đó, là thái độ cần đổi thay trong những ngày này của mùa rất Chay kiêng, tâm tịnh.  

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –
Mai Tá lược dịch