Monday 24 February 2020

Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ Nhất mùa Chay năm A 01/3/20

  
Mt 4: 1-11
     Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ.2 Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói.3 Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi! "4 Nhưng Người đáp: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra."

     Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ,6 rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá."
Đức Giêsu đáp: "Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi."

     Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi."10 Đức Giê-su liền nói: "Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi."
     Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người.


thương mây bay từ đó vẫn cô đơn.
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

     Đường lên núi biếc, dù mây bay từ đó vẫn cô đơn. Cô đơn, với nỗi niềm Chúa cảm nghiệm cảnh tình người phàm khi Ngài vật vã với băn khoăn, rất thử thách.

     Trình thuật tuần đầu Mùa Chay hôm nay, kể cho ta nghe tâm tình của Chúa khi Ngài bị thử thách/cám dỗ, đến như thế. Thử thách/cám dỗ, là những thử và thách suốt 40 ngày đêm nơi hoang vu, sa mạc. 40 ngày đêm, nói lên chuỗi ngày dài một đời, Chúa từng trải nhiều thử thách/cám dỗ mãi đến ngày Ngài kết tận hành trình nơi đồi cao chốn vắng, rất Calvary.

     Chốn vắng Calvary xưa, có thử thách/cám dỗ đưa Chúa vào với mê say để Ngài không thực hiện được ý định Cha đưa ra. Mê say, còn là thử thách/cám dỗ đặt ra với Chúa, rất nhiều lần.

     Thử thách/cám dỗ đặt ra, qua cung cách Cha muốn Ngài thực hiện vai trò của Đấng Mêsia có quyền uy trên cả hoàng đế La Mã, như thánh Mátthêu từng ghi. Thử thách/cám dỗ là thách đố khả năng giải quyết khó khăn do đế quốc La Mã đem lại. Thử thách/cám dỗ, còn là thách thức chức năng Chúa nhận từ Cha, hầu giúp con dân loài người sống yên hàn, lành lặn. Thử thách/cám dỗ, còn là thách đố và thử xem Chúa có nhắm mắt làm ngơ nỗi đau của mọi người, để rồi sẽ trao cho Cha giải quyết mọi việc.

     Thử thách/cám dỗ cướp tay trên quyền uy của đế quốc, để rồi Ngài cũng sẽ hành xử hệt như thế. Thử thách/cám dỗ đặt ra với Đức Giêsu, là thách Ngài giành lại quyền uy của hoàng đế La Mã, rồi cũng sẽ ăn trên ngồi chốc, bức bách dân con lớp người ở dưới. Bởi, một khi đã có quyền hành là có quyền để hành người khác, hệt như vậy. Bởi thế nên, Đức Giêsu chối bỏ mọi lợi lộc dành cho kẻ có quyền. Ngài chối bỏ quyền đối xử với mọi người theo cung cách ấy. Ngài đả kích không chỉ giới cầm quyền La Mã thôi, nhưng Ngài còn chỉ trích chính những uy và quyền ấy nữa. Ngài chọn đường lối không quyền lực, nhưng vẫn sống. Sống với người không quyền, trong “Vương Quốc” của Ngài.

     Thử thách/cám dỗ thứ hai, là thách đố khả năng giải quyết tình trạng nghèo đói trên thế giới. Thời của Chúa, có đến 95% người dân Galilê ở dưới mức tối thiểu, để sống còn. Dân lành thời đó, không đủ cơm bánh và cá, mà qua ngày. Họ cứ lần lượt rơi vào vòng lao lý, tật bệnh hoặc chết yểu. Một số trường hợp, do Hêrôđê tạo ra. Ông lập chương trình xây cất nhiều toà nhà đồ sộ. Lại đánh thuế cao khiến dân đen chịu không nổi đến độ không còn gì để ăn. Để sống nữa.

     Thử thách/cám dỗ cuối cùng đến với Đức Giêsu, là thách đố để xem Ngài có khả năng kích động dân đen, khiến họ căm phẫn quyết chống lại quyền uy của vua quan/lãnh chúa, thời ấy không? Thử thách/cám dỗ, là dỗ dành Chúa đòi lại cơm áo gạo tiền cho dân lành hèn hạ thấp cổ bé họng, ở bên dưới. Thử thách/cám dỗ đưa ra với Chúa, là xem Chúa có hành xử như vua quan mọi thời. Hoặc, Ngài sẽ còn đối xử tệ bạc hơn cả vua quan thời đó, khi có quyền. Nhưng, Đức Giêsu đã chối từ quan niệm coi mình như Đấng ban phát mọi thứ, hầu thoả mãn đòi hỏi của mọi người. Ngài chọn đường lối khác hẳn mọi vua quan/lãnh chúa, ngõ hầu trở nên Đấng Mêsia do Cha định đoạt. Ngài không chấp nhận đường lối của vua quan ở trần gian chỉ biết hưởng thụ, cho thoả thích.

     Với Tin Mừng thánh Mátthêu, thử thách/cám dỗ lớn nhất đưa ra với Chúa, là chỉ lo chuyện lành thánh, cốt khuynh loát những điều do Cha định đoạt, mà chỉ theo ý mình. Khuynh loát, để Cha phải can thiệp mà giải quyết các khó khăn chốn gian trần. Và, buộc Cha Ngài phải làm thế, ngay tức thì. Thử thách/cám dỗ này nguy hiểm hơn thứ gì hết, vì đụng chạm đến đền đài thánh thiêng, lẫn nguyện đường, và cả cuộc sống ngoan hiền, ngõ hầu dẫn dụ Cha sửa đổi mọi chuyện để thuận theo ý Con, chứ không theo ý Cha.

     Người đời thời của Chúa, vẫn muốn tuân theo đường lối giản đơn, rặt như thế. Họ là những người ở Qumran. Những kẻ từng dấn bước theo chân Gioan Tẩy Giả, cả vào lúc khó khăn, đầy bức bách. Và, thử thách/cám dỗ đây, là muốn chế ngự quyền uy thánh thiêng của Chúa. Là, kiểm soát lòng thương xót của Ngài. Thử thách/cám dỗ đây, là nghĩ rằng lòng đạo của mình còn lớn lao/cao cả hơn lòng xót thương của Cha. Và, Đức Giêsu nhận ra rằng: nếu thế thì Chúa Cha không là Thiên Chúa đích thực là Cha của Ngài. Ngài thực sự đã chọn đồng hành với Cha Ngài. Và kết cục, Ngài chọn thuận theo ý Cha, chứ không theo ý riêng của chính Ngài. Và, chọn lựa này mới thật là chọn lựa khác biệt.

     Nếu Đức Giêsu không chọn quyền hành để đánh bạt đối thủ là đế quốc La Mã rất sừng xỏ, không chọn ban phát mọi sự hợp nhu cầu/đòi hỏi của mọi người, cũng chẳng cướp tay trên quyền uy có từ Cha, thì thử thách/cám dỗ đưa ra cho Ngài, là thách thức gì? Thử thách/cám dỗ ấy là sống đích thực đời người phàm. Đời, của những người con không có quyền cũng chẳng có uy. Những kẻ luôn thiếu thốn đủ mọi thứ. Chọn lựa của Ngài, là cùng chung số phận với những người nghèo hèn ấy. Ngài chọn lựa sống như họ, để rồi Ngài đi vào tương quan đích thực với dân đen, hèn kém, chẳng trông đợi vào ai.

     Điều này, thoạt nghe chẳng có gì mới mẻ, hoặc hấp dẫn. Nhưng, mục tiêu Đức Giêsu nhắm đến là như thế. Là, thâu thập dân con mọi người vào với tình thương của Cha. Là, sẽ không một ai bị gạt ra ngoài nhóm hội/cộng đoàn thân thương để chung sống. Nhóm ấy, cộng đoàn ấy vẫn có Chúa, có Cha vào mọi lúc. Bởi, chính Cha đang ở ngay trong nhóm. Bởi, chính cộng đoàn là nhóm hội của Cha, đã có được tình thương yêu, hy vọng. Hy vọng, mọi người sẽ sống chung và sống cùng. Cùng sống. Cùng lướt vượt mọi khó khăn, rất đồng đều. Đó chính là đường lối Chúa chọn sống.

     Ngài lướt vượt mọi thử thách/cám dỗ Ngài theo đường khác. Cám dỗ ấy, Ngài thấy rất rõ, suốt đường đời Ngài từng trải. Và, nay Ngài trở về với những gì là căn bản của chính con người. Trở về với con người đích thực, trước/sau mọi thử thách/cám dỗ. Ngài trở về, cả vào lúc những người khó nghèo/bần hàn kia đã quay lưng chống lại Ngài. Vì thế, đế quốc mới giết hại Ngài. Vì thế, Chúa Cha mới không kịp nghe tiếng Ngài kêu cầu, nơi vườn cây Dầu.

     Và đây chính là thông điệp gửi đến với Hội thánh, hôm nay. Thông thường, Hội thánh vẫn muốn thi đua với thế gian, ngoài đời. Vẫn muốn đấu tranh tạo phần thắng, hầu lấy lại quyền uy chính trị, từng luột mất. Lấy lại quyền, để tạo uy hùng dũng mãnh, trên chúng dân. Thông thường, Hội thánh vẫn muốn thi đua với các tổ chức bác ái, quyết lấy lại uy tín bằng việc ban phát các phẩm vật cho dân đen nghèo hèn. Thông thường, Hội thánh từng tìm cách tỏ ra mình những muốn sống đời lành thánh để kéo Chúa về cùng phe, để Ngài sẽ đi theo con đường mình đang thực hiện. Quả là, Hội thánh nay cũng gặp thử thách/cám dỗ như Đức Giêsu, ở thời hôm trước.

     Bản thân ta cũng thế. Ta vẫn muốn trở thành nhân vật quan trọng có khả năng giải quyết mọi vấn đề; để rồi, sẽ lôi kéo Chúa vào phe mình, mỗi khi cần. Thông thường, ta cũng muốn chối bỏ những thử thách/cám dỗ, rất tương tự. Bởi thế nên, hãy đề cao cảnh giác cả vào khi ta đã khá giả và trở nên mạnh mẽ, cũng nên biết mình chỉ là kẻ hèn mọn, vẫn phải sống với những khó khăn không dứt bỏ. Bằng không, nhiều lúc ta vẫn cứ nghĩ mình là kẻ sở hữu cả Đức Chúa. Chăm lo cho Chúa, rất nhiều điều. Vì nghĩ thế, nên ta cứ cho rằng mình đang theo Đức Giêsu và chính mình đang là Chúa, nữa không chừng?

     Thật sự, hãy nhớ rằng mọi người cũng như ta, chỉ là những kẻ vô danh tiểu tốt trong đám đông quần chúng. Cũng chỉ là phận hèn loài người được Chúa đoái thương. Được Chúa ban phát đôi điều để có thể sống sót, sống còn với mọi người. Có thể những gì Chúa ban cho ta, không là bánh/là cá, như người Do thái khi xưa từng học biết. Nhưng, ta học biết để Chúa trở thành chính Chúa. Và, qua học hỏi, ta khám phá ra rằng ta được Chúa đi bước trước, là để Ngài vẫn thương ta. Vẫn muốn ta về với Ngài

     Hãy cảm tạ Cha đã để Đức Giêsu lướt thắng mọi thử thách/cám dỗ, được như thế. Hãy nguyện cầu, để Hội thánh của ta cũng được thế. Hãy chúc nhau có được cơ may lướt thắng được chính con người mình. Lướt thắng mọi thử thách/cám dỗ vẫn xảy đến với mình, vào mọi lúc. Có thế, ta mới an tâm bước vào Mùa Chay thánh. Có thế, ta mới thấy vui được Chúa dẫn đưa ta ra khỏi mọi thử thách/cám dỗ, rất trần gian.

     Trong hân hoan dấn bước, ta hãy cùng dân con ở đời ngâm nga đôi lời thơ ý nhị, rằng:

                        “Anh trở lại, con đường lên núi biếc,
Thương mây bay, từ đó vẫn cô đơn.
Những bông hoa, còn có nửa linh hồn,
Những lá cỏ, nghiêng vai tìm mộng ảo.”
(Đinh Hùng – Cánh Chim Dĩ Vãng)

     Rất chí lý. Bông hoa kia, có khi chỉ còn nửa linh hồn vẫn cứ “nghiêng vai tìm mộng ảo”, thì tôi và anh sẽ chẳng tìm lối đi không thử thách. Để, sẽ thấy Chúa, thấy Cha ở phía trước đang giơ tay đón chờ. Chờ tôi, chờ anh bấy lâu nay. Ở mọi thời.

     Lm Kevin OShea DCCT biên soạn –
     Mai Tá lược dịch.

Wednesday 19 February 2020

Suy niệm Tin Mừng CN 7 Thường niên A: “Nếu địa đàng, chẳng còn gì để nhớ”


“Hạt bụi rớt xuống đời, xin lẫn vào nhau…”
(dẫn từ thơ Bùi Thanh Tuấn)

Mt 5: 38-48

Hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.

"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.


Địa đàng cuộc sống, là chốn miền để gợi nhớ. Hạt bụi tình người, là chất liệu để yêu thương. Thương yêu, điều Chúa nhắc nhở, ở Tin Mừng, vẫn được thánh sử ghi chú, vẫn lâu nay.

Nhiều người, rất lấy làm lạ khi được bảo: Tin Mừng thánh sử viết, là bản văn viết không vào thời Chúa hoạt động, hoặc ngay sau ngày Chúa sống lại, nhưng được viết vào nhiều thập niên sau, như: “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” chẳng hạn, đã chỉ được ghi chép vào giữa thập niên ’80, ở thế kỷ đầu. Và, người ghi chép “Tin Mừng” này không phải là Mát-thêu-thu-thuế thời Chúa sống. Cũng không là một trong số mười hai tông đồ, gần gũi Chúa. Ông là học giả Do thái hiểu biết nhiều tiếng Hy Lạp, xuất thân sinh sống tại một quận ở ngoại ô Giêrusalem, mà người thời ấy có thói quen gọi là “thày dạy”, hoặc đấng bậc “tư tế”.

Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu”, là vị thức giả từng hồi hướng về với Đạo Chúa, ngang qua các thừa sai của Chúa.Thánh sử Mát-thêu học được nhiều điều, qua hành động và cuộc sống từ các Đạo hữu theo chân Chúa. Đặc biệt, là các vị có liên hệ mật thiết với thánh Phêrô tông đồ, thời tiên khởi. Khi ghi chép Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, tác giả đã ở vào độ tuổi cao niên khá cứng, nhưng ông lại là người có tầm nhìn thông thoáng, thi vị. Ông đề cập nhiều đến những con người và người con có tâm tư chân phương. Bình dị. Nhưng có tư cách.

Sử gia Mát-thêu, là cây viết rất sáng giá. Thánh nhân, tuy chung đụng nhiều với người Do thái, nhưng dùng tiếng Hy Lạp để ghi chép Tin Mừng. Và, qua văn phong văn thể cùng lập trường chuyên chính rất Kitô, nên các nhà chú giải cho rằng tác giả là một trong các Kitô-hữu đầu tiên, ở thời ấy. 

Tin Mừng do tác giả viết, lại gồm lời lẽ ân cần, gửi đến các đấng bậc khôn ngoan/thông thái ở Israel. Nên, nhờ đó ta học được rất nhiều điều qua các dạng thức, như: lời sấm, dụ ngôn, phương châm, hoặc tư vấn, nhất nhất đều nhấn mạnh đến điều Chúa giảng rao cho mọi người. Bởi thế nên, người đọc nhận ra những 73 lần tác giả lập đi lập lại cụm từ “tông đồ”, ở “Tin Mừng” này. Và vì thế, người đọc cũng nên hiểu cụm từ “tông đồ” theo nghĩa các “đấng bậc khôn ngoan/uyên bác” chuyên học hỏi những điều hay lẽ phải, do từ Chúa phán ra. Và cũng vậy, người đọc đừng nên hiểu rằng tác giả “Tin Mừng” là nhà thức giả thuộc tầm cỡ đại học, chuyên ngồi trong phòng lạnh để viết. Hãy cứ tưởng tượng rằng: khi ghi chép “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” tác giả đã suy tư dưới ánh đèn dầu leo lét, với tâm tình nguyện cầu, có bầu khí ẩm ướt, nặc mùi khô cháy. Có lưới cá đang hơ hóng, ở đâu đó…

Nay có người hỏi: thánh sử Mátthêu muốn chuyển tải điều gì mới mẻ, khi ghi chép Lời Chúa?

Hầu hết các cộng đoàn tin theo Chúa sống ở Giêrusalem, đều mang tính chất rất “Do thái”. Hết thảy đều thấy nơi Đức Giêsu một Môsê rất mới để các vị nghe lời. Vì, xét cho cùng, Ngài còn mới hơn cả chính tiên tri Môsê, bởi Ngài là Đấng luôn chủ trương những điều mới mẻ, nơi Lề Luật. Và, điều mới mẻ khác nữa, là: Ngài không cất bỏ đi yếu tố quan trọng sẵn có từ hậu duệ của Đavít. Và, mọi người còn nhận ra nơi Đức Giêsu, hệt như ở Môsê và Đavít, ảnh hình của Đấng Bậc Hiền Từ, rất đặc biệt. Đặc biệt, là bởi người người đều nhận thấy rằng: qua Ngài và ở nơi Ngài “Ơn Cứu Độ” đã đến, là đến với cả Dân ngoại nữa. Ngài đến, qua trung gian Israel hoặc những người Do thái, tức: những người lúc ấy vẫn ở trong tư thế cách xa và tách rời khỏi dân-được-chọn. Và, họ coi đó như ân sủng riêng tư, nhận từ Chúa. 

Bởi thế nên, trở thành người hết lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, phải là người Do thái tích cực, phóng khoáng, những người chủ trương tuân giữ Luật Torah rất Đạo. Từ đó, cộng đoàn dân Chúa đã thấy mọi người tập trung nhấn mạnh đến Luật Torah. Quyết tuân giữ Lề Luật cách kiên trì, nhưng thông thoáng. Tuân và giữ, theo tinh thần tự do của người con Đức Chúa, mới đúng.

Vốn đặt nền tảng vững vàng lên truyền thống rao giảng kiểu thánh Phaolô Tông đồ, Hội thánh Chúa khi ấy đã có tầm nhìn rất khác lạ về Lề Luật. Và, Hội thánh đã coi Đức Giêsu là Đấng Bậc rất Do thái, chủ trương giữ Luật Torah thật đúng qui cách. Rất tự do, phóng khoáng, cho đúng nghĩa. Kể từ đó, Hội thánh vốn có sẵn tinh thần giảng rao của thánh Phaolô, lại đã khám phá ra rằng: tự do con cái Chúa là một hiện hữu rất đích thực, khi ta tuân thủ Lề Luật, rất Torah.

Là người Do thái sống ở miền Bắc xứ Palestin thời tiên khởi, thánh sử Mát-thêu xuất xứ từ một quá trình cuộc sống, có lập trường khá bảo thủ. Chí ít, là truyền thống giữ luật đúng qui cách, như Chúa dạy. Thánh sử cũng lo rằng nhiều truyền thống có thể sẽ mai một đi nếu không có người bận tâm lo duy trì nó. Và, thánh sử còn một mối lo ngại nữa, cứ e rằng: rồi ra sứ vụ tông đồ rao giảng kiểu Phaolô thánh nhân, có thể sẽ khiến truyền thống của người Do thái trở thành thứ yếu, mất đi tầm quan trọng. Do đó, thánh sử gia đã cảm thông với tình huống mà cộng đoàn Hội thánh ở Giêrusalem đang sống, dù cho thánh sử không thuộc về cộng đoàn này.

Cũng vì thế, tác giả quyết tâm tái cấu trúc cộng đoàn theo kiểu cộng đoàn dân Chúa ở Giuđêa, nghĩa là: không chỉ rập theo khuôn phép cũ của người Do thái, nhưng còn phổ biến lối sống của cộng đoàn Hội thánh Giêrusalem, hoặc có khuynh hướng mục vụ rao giảng theo kiểu của thánh Phaolô. Bởi thế nên, người đọc nhận ra rằng: “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” cũng mang dáng vẻ bảo thủ qua việc đòi mọi người giữ luật cho đúng qui cách. Chí ít, là cải cách niềm tin của người Do thái theo khuôn khổ “chiên lạc rời khỏi ràn nhà Israel”. Thành thử, tinh thần của thánh sử và của cộng đoàn nơi thánh nhân sinh hoạt vẫn có khả năng duy trì mối liên kết chặt chẽ với đền thờ người Do thái.

Tuy nhiên, thánh sử Mát-thêu không quên rằng: chính Đức Kitô mới là Đấng ta cần tin vào Ngài. Thánh sử diễn tả lập trường này theo lối viết giản đơn, rất thông thường, rằng: thay vì ta áp dụng nguyên tắc đền và bù như: “mắt đền mắt”, “răng đền răng”, tác giả lại khuyên người đọc Tin Mừng của ngài, hãy nên sử dụng đường lối bất-bạo-động. Và, thay vì phòng thủ hoặc trả thù, thánh sử đề nghị ta nên khoan dung, độ lượng. Thay vì lo cho riêng mình, hãy quan tâm ái ngại đến người khác. Với thánh sử Mát-thêu, đây không phải là lạc quan sáng suốt, cũng chẳng là đường lối tư riêng độc quyền của người Hy Lạp, nghĩa là đường và lối chỉ chú trọng vào cuộc sống tư riêng của người khác, thôi. Nhưng, là: hãy áp dụng luật Torah theo qui cách thương yêu, như Chúa đã khuyên dạy.

Điều cốt thiết mà thánh sử nhận ra nơi lời dạy của Chúa, là: Ngài là người giữ luật Torah, rất đúng cách. Tuy nhiên, Ngài chú trọng đến tinh thần, chứ không phải chữ viết của Luật. Nói cách khác, người đọc “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu không thể hiểu Luật Torah cho đúng cách, nếu không thi hành lời dạy của Đức Giêsu cũng như cộng đoàn nhỏ bé của Ngài, là Hội thánh thời tiên khởi. Bởi, cộng đoàn Hội thánh mới là người sống thực Luật Torah theo tinh thần Chúa đề ra. Và, thánh sử lại thêm rằng: dân con thành thánh Giêrusalem không chắc đã nhận ra được điều này. Vì thế nên, người đọc “Tin Mừng” có thể kết luận rằng: tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” quả là phóng khoáng cũng rất đúng.
Vậy, người đọc hôm nay học hỏi được điều gì qua sự việc này?

So sánh kinh nghiệm của các thừa sai tông đồ thời tiên khởi với kinh nghiệm thời Hậu-Công Đồng Vatican II, dân con Hội thánh nhận ra được điều gì? Ta có nhận ra được năng lực và tự do con cái Chúa nơi cộng đoàn Hội thánh tiên khởi theo kiểu thánh Phaolô không? Phải chăng, so sánh kinh nghiệm về cố gắng ‘tái lập’ di sản được bảo tồn, đáng yêu từ một truyền thống rất đúng đắn? Truyền thống, có là qui cách mà tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” hằng cảnh báo Hội thánh hãy trở về với tính chất Do thái, ở lai thời không?

Nếu tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” nay còn sống, hẳn thánh sử sẽ lại yêu cầu các đấng bậc vị vọng trong Hội thánh hôm nay, hãy quan tâm nhiều hơn nữa đến việc tái tục truyền thống đã có từ thời tiên khởi? Và, Hội thánh cũng nên nhìn vào Đức Giêsu hơn là các truyền thống mà các ngài muốn duy trì, bảo vệ. Hẳn rằng thánh sử Mátthêu cũng sẽ yêu cầu mọi thành viên Hội thánh hôm nay hãy có tầm nhìn phóng khoáng và cởi mở, tốt hơn là ở lại với truyền thống xưa/cũ. Như Đức Giêsu khi xưa, vẫn đứng về phía những người duy trì Luật Torah, bằng tinh thần chứ không theo từng chữ. Và, ảnh hình Chúa chấp nhận dìm mình thanh tẩy nơi sông Giođan, sẽ là bằng chứng điển hình cho việc tuân giữ Luật Torah, rất tự do. Rất có tinh thần thương yêu. Đúng qui cách.

Thật là khó để tác tạo được một quân bình cho cơn sóng dồn và sức ép từ Lề Luật, thế mà Ngài vẫn chấp nhận dầm mình dưới giòng sông Giođan để chứng tỏ tinh thần giữ Luật đúng cách. Nhưng, tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” vẫn sẽ là vị học giả cao niên, chín chắn. Là vị thức giả hiểu rõ hơn ai hết tinh thần của người Do thái. Hiểu Đức Kitô và người nghèo, hơn ai hết. Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” chính là người có được nhận thức mới về sự khôn ngoan, thông suốt cho mỗi người chúng ta.

Hiểu được tâm trạng của thánh sử theo cung cách của thi nhân thời nay, tưởng cũng nên ngâm nga tiếp lời thơ ý nhị ở trên, rằng:

                   “Thức dậy, một sớm mai thấy mình như hạt bụi,
                   Khắc khoải giấc mơ ròng rã, nửa đời người.”
                  (Bùi Thanh Tuấn – Nếu Địa Đàng Chẳng Còn Gì để Nhớ)

Khắc khoải hay không, e rằng không chỉ thế. Mà còn hơn thế nữa. Hơn, là vì Hội thánh ta hôm nay vẫn còn nghe và cứ nghe lời gọi mời của Đức Kitô: hãy sống tinh thần Luật Torah, cho đúng cách. Bởi, đó là luật của Tình Thương. Với mọi người.

Thursday 13 February 2020

Suy niệm Tin Mừng CN 6 Thường niên A: Hạt linh hồn Torah là sự sống


“Tôi e những hạt linh hồn ấy”
rơi xuống thành hoa giữa tự nhiên.”
(dẫn từ thơ H.P. Ngọc Tường)

Mt 5: 17-37
     “Hạt linh hồn” rơi xuống chắc gì đã thành hoa? Giữa chốn tự nhiên, lụa là huyền ảo, luật Torah.
     Với sách Đệ Nhị Luật, “hạt linh hồn” Torah “chính là sự sống” (ĐNL 32: 47). Sống, Lời mặc khải Chúa gửi đến với dân con Do thái, người của Chúa. “Hạt linh hồn” Luật, đượm nhiều ý nghĩa của một lời hứa gửi đến những ai biết giữ luật, dù họ và ta chưa từng thấy ai giữ được cách hoàn hảo, cả.
     Điều thường thấy hơn cả, là: những người sốt sắng giữ Luật lại có cuộc sống rất bất toàn. Thế nên, nhằm để giúp dân con hoàn thành cuộc sống có luật có lệ, giống như truyền thống của người Do Thái xưa, Luật Torah được bổ sung thêm hai mô hình, là: “halakah”“haggadah”.
     Haggadah, là bộ sưu tập gồm những truyện huyền ảo dùng làm cơ sở cho nền “thần học” thời ấy. Và, là lời kinh tung hô chúc tụng Chúa. Nhất nhất, mỗi truyện mỗi tóm gọn nét diễm kiều của Luật, nhưng lại không chứng tỏ được cách sống hợp với luật theo tình cảnh của mỗi người.
     Halakah, là lời bình về Torah theo đúng nghĩa đen. Theo tiếng Do Thái, thì cụm từ “Halakah” có nghĩa là: “ra đi”. Là, “lên đường”, ta dấn bước. Là, con lộ tẻ trên đó người người dấn bước ra đi, để thực hiện lề luật người xưa lập. Đi, như kẻ từng thấm nhuần nền đạo đức, rất Torah.
     Hôm nay, ta thử tìm hiểu xem cụm từ Halakah có ý nghĩa gì với tình cảnh của nhà Đạo.
Sau ngày trở về từ chốn lưu đày xứ Babylon, Halakah lâu nay phát triển, cũng khá mạnh. Chính Ezra và Nêhêmia, là những vị dẫn đầu truyền thống ấy cho đến thời của Mishnah. Tiếp đó, truyền thống này được triển khai nhờ có sự dẫn dắt của các thượng tế, kể từ ngày Giêrusalem bị phá huỷ vào thập niên 70. Từ dạo đó, các nhóm hội nhà Đạo đều thực hành chính Halakah của mình, như: nhóm Pharisêu, Ét-xê-nô, Qumran, nhóm Nhiệt Thành, vv…
     Phần lớn luận cứ do các nhóm này đưa ra để tranh luận về luật Đạo, lại là “Giới luật Yêu Thương”, tiếng Do thái gọi là hesed, tức: tình thương gia đình. Nếu vậy thì, giới lệnh nào là luật quan trọng nhất, của Torah?
     Câu hỏi này, không là vấn nạn căn bản đối với nhóm hội/đoàn thể, của người xưa. Bởi, các thượng tế khi xưa vẫn đều hỏi nhau như thế. Hỏi, là hỏi rất nhiều lần những gì được ghi ở 613 điều khoản khác nhau trong bộ luật Torah. Các vị này có thói quen bốc thăm xem luật nào thích hợp với nhóm mình hơn và điều khoản nào, là giới lệnh quan trọng nhất. Hillel, một học giả Do thái đã trả lời cho câu hỏi trên, tựa như thánh Mát-thêu ghi ở trình thuật hôm nay. Thánh nhân dùng đó như những Lời xuất phát từ miệng Đức Giêsu Kitô. Thật ra, ta không có chứng cứ cụ thể nào để quyết được rằng: thánh Mát-thêu có biết rõ chuyện ấy hay không mà sao thánh nhân vẫn coi đó như Lời của chính Chúa.
     Với các nhóm/hội Do thái nói trên, nhóm nào cũng nhận ra hai khuynh hướng được đề cập rất rõ: một, là khuynh hướng cứng ngắc, đặt nặng lên nghĩa đen của Luật. Còn chiều hướng kia, uyển chuyển hơn, chỉ chủ trương giải thích lập trường để Luật Torah mang chất “người” hơn. Nhân bản hơn.
     Các vị theo khuynh hướng triệt để, vẫn đưa ra những đòi hỏi buộc mọi người phải tuân giữ Luật Torah, từng chữ một. Họ thôi thúc mọi người sống cách biệt khỏi thế giới phàm tục. Tức, thế giới của xã hội La Mã và dân ngoài luồng, sau thập niên 70. Họ cổ suý lối hành đạo theo cung cách sốt sắng, thánh thiện. Nói cách khác, họ ưa thích lối khắc kỷ, khổ hạnh hơn.
     Ngược lại, các nhà chú giải Torah từng theo cung cách rất nhẹ nhàng/uyển chuyển, lại ưa thích đường lối nhân bản mà Luật nhắm đến. Tức, chỉ nhắm vào nhu cầu Tình Thương. Vào, những đòi hỏi giúp giùm, đùm bọc người khó nghèo hèn, tật bệnh tật hoặc có nhu cầu phúc lợi khẩn thiết nhất.
     Các vị thường chọn những điều luật dễ dàng cho phép khi áp dụng Torah. Tức, đi xa hơn mọi ranh giới của luật lệ. Xa hơn, những gì chỉ được viết và hiểu theo nghĩa đen. Các vị theo Halakah muốn rằng người thi hành Luật nhuần nhuyễn tinh thần luật, hầu biến các điều khoản ấy thành quyết định cho riêng mình. Tức, sống thực thụ ý nghĩa và tầm mức thương yêu của luật, với cộng đoàn. Nói khác đi, các vị muốn người giữ luật được sống thư giãn/thoải mái với lối chú giải đầy rắc rối. Hạn chế.
     Xem như thế, đền thờ Do thái là nơi tốt nhất để mọi người có thể đến mà bàn luận về những điều về Luật Tình thương, như thế. Và cũng thế, từ thế kỷ thứ đầu đời, nhất là sau khi đền thánh bị phá huỷ, nhiều người Do thái giỏi dang/thông minh đã đứng ra đảm nhiệm công việc này. Thời gian trôi mau, nhưng vẫn không thấy có thêm ngôn sứ nào xuất hiện, từ ngày ấy. Và, cũng từ ngày có các vị chú giải luật theo khuynh hướng Halakah tạo nên luồng gió mới có kinh nghiệm từng trải về sức lôi cuốn đưa dẫn mọi người đến với luật yêu thương. Và, con số các vị áp dụng luật theo cách gò bó/khó khăn cũng ít dần.
     Trong khi đó, các vị chú giải theo cách thoải mái/uyển chuyển đã thu hút được rất nhiều người nghe. Cáv vị này tạo được trào lưu đích thực về sự thông thoáng, khi giữ Luật. Tạo được lòng xót thương nhân bản, cho mọi người. Các vị cũng được coi là những người chuyển luật tình thương Torah, với mọi người.
     Ví dụ điển hình về địa hạt thực dụng và đúng đắn của Halakah, là: việc thực hành các trường hợp ly dị và tầm quan trọng của ngày Sabát. Xem thế thì, ngay cả khi không thấy Luật Torah đề cập đến chuyện ly dị, theo nguyên tắc và trường hợp cho dân con Do thái được phép lao động chân tay, ngày Sabát, cũng đã thấy có nhiều uyển chuyển, giữ luật theo tinh thần, chứ không đặt nặng từng chữ, vẫn đực tiếp tục thực hành. Và tên tuổi các nhà làm luật gò bó, phải kể đến Shammai là người rất nhiệm ngặt về luật. Trong khi đó, Hillel là nhân vật chủ trương Halakah thông thoáng, uyển chuyển hơn.
     Trong tầm nhìn như thế, có thể nói là: các nhà chú giải luật có tính phóng khoáng của Halakah đúng là anh em ruột của thánh sử Mát-thêu, và Đức Giêsu. Bởi, khi đọc Tin Mừng của thánh nhân, ta đọc ra giòng chảy của một thức giả Do thái từng biết nhiều/hiểu nhiều về thói quen, cung cách và luật lệ Do thái. Thánh Mát-thêu hiểu rõ Đức Giêsu là người Do thái. Và như thế, thánh nhân chính là vị thánh đã quảng bá rất thành công đường hướng luật đích thực, của Đức Chúa.
     Thật sự, thánh Mát-thêu đã thánh nhân trong việc định vị Đức Giêsu như Nhà Làm Luật rất thông thoáng, theo kiểu Halakah. Thánh nhân còn là sử gia chuyên viết về luật Halakah của Đức Chúa. Đấng đưa ra luật Tình Thương, viết bằng khẩu lệnh. Lời Khuyên rất am tường, uyển chuyển. Ngài không bức bách. Không ép buộc. Và, giòng chảy thánh Mát-thêu thực hiện, chính là Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, ta vẫn nghe. Xem như thế, ta có thể gọi đó là Halakah đấng thánh, cũng rất được.
     Halakah do thánh Mát-thêu ghi, bắt đầu bằng “Bài Giảng Trên Núi”, một hiến chương hay còn gọi là luật thực thụ do Chúa tạo nên. Là, định luật theo ánh sáng và tinh thần này. Và, bận tâm của thánh Mát-thêu là cốt để thiết lập những gì mới mẻ, nơi lời giảng dạy của Đức Chúa hầu ăn khớp với lịch sử của người Do thái. Sự mới mẻ này, vượt quá và vượt trên những gì đã được viết trong Torah. Điều mới ấy, còn thấy rõ trong các trình thuật do thánh Mát-thêu ghi, suốt hành trình viết sử của ngài.
     Tóm lại, có thể nói:Halakah theo kiểu của thánh Mát-thêu, từng là và luôn là Luật Tình Thương của Đức Chúa. Là, câu trả lời thoả đáng cho câu hỏi: đâu là giới lệnh cao quý nhất, của Luật Torah? Cuối cùng, thì Torah chỉ là và phải là Luật Tình Thương, thôi. Chính vì thế, ta có thể nói: thánh Mát-thêu là người Do thái, rất đích thực. Là, thánh sử rất thực thụ, chuyên chép lại đường lối rất chính xác của Đức Giêsu. Của, Hội thánh rất tiên khởi.
Diễn tả các chi tiết trên theo tâm tình của nhà thơ, ta có thể kể thêm như sau:

“Nghe nói người Tiên vẫn hiện hình,
Bước ra từ những cõi u linh.
Em như cô Tấm trong hoa thị,
Về đứng nhìn tôi, trên nước xanh.”
(H.P. Ngọc Tường – Hoa Thuỷ Tiên)

     Đành rằng, Thủy Tiên không là Torah, Luật Do Thái. Cũng chẳng là nhân sinh quan sống động của Halakah. Nhưng, Thuỷ Tiên ấy, người Tiên nọ vẫn cứ “hiện hình từ cõi u linh”, để nói rằng: Luật gì thì luật, vẫn không thể qua được Luật Tình Thương, của Đức Chúa. Rất mặn nồng.