Friday 30 August 2013

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,”



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ 23 Thường niên năm C 10.9..2013

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,”
“ta oặn mình trong những khổ tâm riêng.”
(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Lc 14: 25-33
Với nhà thơ, làm sao biết được sự đời vì tuổi nhỏ. Nhỏ về tuổi, nhưng vẫn có nỗi khổ tâm riêng, rất oặn mình. Với nhà Đạo, tuổi đời của ai đó tuy có nhỏ, nhưng nếu người tuổi nhỏ biết lắng nghe và thực hiện lời Chúa, thì đời mình rồi cũng sẽ vui.
Lời Chúa hôm nay thánh Luca ghi, là Lời nhắn mọi người hãy từ bỏ giàu sang bạc tiền, của cải. Lời Chúa, vẫn là bí quyết để sống vui, sống đẹp, sống thanh thản như Ngài từng khuyên. Từ bỏ của cải/bạc tiền vẫn là chuyện dĩ nhiên. Dĩ nhiên, cho người tuổi nhỏ và dĩ nhiên cho cả người đi Đạo những biết phải bỏ rời cả mẹ cha và quá khứ, để theo Chúa.
Bỏ và rời, người nhỏ tuổi đôi lúc cũng chơi trò thương-ghét/ghét-thương cả mẹ cha đến độ khép kín cuộc đời lành, để mải miết với thú vui tạm bợ, sống lạc lõng. Lớp người tuổi nhỏ ở đâu cũng có, chẳng bao giờ mãn nguyện với hiện tại, nhưng vẫn kiếm tìm những thứ mới lạ và khác biệt, coi đó là lý tưởng cho riêng mình.
Lý tưởng mà người tuổi nhỏ hằng kiếm tìm bao giờ cũng đẹp, nhưng đôi khi vẫn là những thứ và những sự khó đối mặt để cùng sống. Những thứ và sự ấy, nhiều lúc kiếm tìm mãi vẫn không gặp, khiến người người chẳng biết đi hoặc đến nơi đâu mà tìm kiếm. Lắm lúc như có cảm giác mọi sự đã hiện diện trong con người mình mà không biết, nhưng lại cứ lùng tìm chiếm đoạt nó cho bằng được.
Người tuổi nhỏ có lý tưởng, tuy chưa đạt những thứ và những sự mình hằng ước, nên mới xác tín rằng: những thứ ấy luôn hiện hữu và nghĩ: mình được “phép” tận hưởng mọi thứ theo cách tưởng tượng. Và, vì chưa đạt được những gì mình tìm kiếm, nên người tuổi nhỏ vẫn tìm kiếm mãi. Kiếm và tìm, như thiên đường được báo trước. Cuối cùng, người người lại triển khai niềm tin riêng tư bằng quả quyết: chắc chắn có thiên đường. Đó là niềm tin. Là, xác tín của mọi người dù lớn nhỏ. Đó, là huyền-nhiệm tuy không định nghĩa được, nhưng ta vẫn muốn có, dù chưa gặp.        
Trình thuật, nay đề cập chuyện “cởi bỏ” giàu sang, bạc tiền hiểu theo nghĩa rộng, tức: những thứ và những sự mà mọi người dù lớn/nhỏ vẫn cần rũ bỏ. Đó, chính là nỗi khó cho người tuổi nhỏ khi chưa đạt được những gì mình kiếm tìm. Chưa đạt, nên khó mà rũ bỏ. Tuy nhiên, Lời Chúa vẫn dạy mọi người cần rũ bỏ những gì là năng lượng chìm sâu trong quyết tâm đưa mình vào thứ gì khác lạ. Thứ gì khác, là khả năng suy nghĩ về sự sống; về cả khả năng vấn nạn mọi sự trong cuộc sống.
Đi vào cuộc sống, là kiếm tìm niềm tin. Kiếm tìm, một lý tưởng nào đó khiến người người thuộc mọi văn-hoá, lứa tuổi cũng như giai tầng xã hội đều thực thi trong xã hội. Xã hội ngoài đời gồm những vị trưởng giả cũng như giới nghèo/hèn ở cấp thấp vẫn kiếm tìm “thiên đường hạ giới” nơi cuộc đời. Kiếm tìm mãi, mới khám phá ra rằng: thiên đường mình tìm để sống không là chốn miền ao ước, mà là trạng huống sống có tình thương-yêu, giúp đỡ lẫn nhau. “Thiên đường hạ giới”, là diện mạo trần thế của niềm tin, chứ không là chốn vui chơi, sa đà.
Cuộc sống người Công giáo các thập-niên qua, nhiều người lại đã nhận ra rằng: dù vẫn tin, nhưng niềm tin của ta ra như còn mang tính chất của “người tuổi nhỏ”, dù đã lớn. “Tuổi có nhỏ”, nhưng bằng vào cách nhìn về Hội thánh như giấc mơ. Mơ, rằng: cả trong lý tưởng để sống cuộc sống “thiên đường hạ giới”, người người vẫn có nhiều hạn chế. Mơ, còn vì Hội thánh ta chẳng khi nào trưởng thành được nếu không thực hiện điều Chúa nhắc nhở.
Hội thánh ta sẽ chẳng thể nào tìm ra được “thiên-đường-cửa-hẹp” như Chúa nói, nếu không biết cởi bỏ tình huống khép kín, đóng khung, chia cách. Trái lại, nên hiệp thông, yêu thương, giùm giúp nhau. Yêu thương giùm giúp trên đường tìm kiếm cách-thế trưởng thành trong san-sẻ “thiên-đường-cửa-hẹp” có niềm tin sâu sắc. Nhiều thập-niên qua, người Công giáo vẫn cứ ngồi lì trong tình-huống rất “tuổi-nhỏ”, lại chưa đạt tình-trạng trưởng-thành của văn-hoá sự sống, rất đúng nghĩa. Sống, có tin và yêu thương lẫn nhau như người anh người chị cùng một cha, một mẹ.
Chín-chắn/trưởng thành, nằm trong hy-vọng cũng như niềm tin. Hy vọng và tin-yêu như tín-hữu cộng-đoàn tiên-khởi thời của thánh Luca từng sinh sống, dẫn dắt. Cộng-đoàn khi ấy cũng có yêu và có ghét. Yêu người cùng giòng giống, ghét đế quốc La Mã thời trước từng bách hại cộng đoàn mình. Tuy nhiên, cộng đoàn thánh Luca cũng đã kinh qua các giai đoạn khó sống, để rồi tỉnh thức trỗi dậy đi vào một thế giới khác biệt, quyết trở thành tín-hữu của Chúa, đã đổi mới. Thánh Luca tin tưởng điều ấy và tìm cách huấn-dụ dân con đồng Đạo đi vào “thiên-đường-cửa-hẹp”, Chúa muốn đi.
Cộng-đoàn Luca cũng kiếm tìm nhiều, đã nhận ra chân lý, nên thấy được rằng: muốn trở thành dân con đích thực của Chúa, ta đừng quá bận tâm vào chuyện kiếm tìm “thiên-đường-cửa-hẹp” mà làm gì. Bởi, trước khi ta tìm ra Chúa, thì Ngài đã tìm ta và thấy ta. Ngài đón nhận ta làm con của Ngài, ngay từ đầu. Đó, chính là huệ-lộc Chúa ban cho ta một cách nhưng-không. Ta chẳng cần kiếm hoặc tìm mà chỉ cần duy trì quà tặng bằng quyết tâm tin, yêu, hy vọng vào tình Chúa vẫn thương ban.
Huệ-lộc Chúa tặng ban, ta không có khả năng tự mình rút tỉa, nhưng đó là quà nhưng-không, Chúa biếu không ngay từ đầu. Huệ-lộc, biến thành thứ gì đó rất trừu-tượng trừ phi nó được Chúa tặng ban cho ta, không cần đến bàn tay ta dính vào. Điều tuyệt vời, là ở chỗ: quà ân-huệ “đã” được Chúa tặng ban cả vào lúc trước khi ta kiếm tìm nữa. Cũng như thể, ta cứ nghĩ: mình cần thứ ân-huệ-cộng-thêm cho những gì hiện giờ ta chưa có. Nếu nghĩ thế, ắt cho huệ-lộc đây chỉ là thứ quà cáp Chúa tặng ban sau khi suy đi nghĩ lại, chứ không phải từ đầu. Không. Không phải thế. Huệ-lộc Chúa ban không là quà tặng vào giai đoạn cuối đời, mà là quà tặng Chúa cưu mang, ngay từ buổi đầu.
Huệ-lộc cũng không là thứ gì đó chẳng ai trông chờ. Không là món nợ Chúa còn thiếu, nên mới trả cho ta. Quà Chúa tặng, không là phần thưởng Chúa hứa hẹn cho người sống tốt lành, hạnh đạo, chỉ một ít. Huệ-lộc, là quà có sẵn bên trong bản thể con người. Là người, ta đã được tặng ban huệ-lộc “nhưng-không” ở phần thâm-sâu của bản thể; nhờ đó, ta được thấy Chúa, ngay từ đầu. Bản thể “người”, tự thân, đã hàm-ngụ thứ khả-năng được thấy Chúa ngay từ lúc đầu. Đây không là văn/thơ, kịch bản đầy diễn-xuất, nhưng lại là cung-cách Chúa tạo-dựng nên ta. Chúa thẩm-thấu vào chính bản-thể “người” của ta, ngay từ đầu.
 Nói cách khác, không phải là ta khởi đầu tìm Chúa khi tìm kiếm huệ-lộc; nhưng, Chúa đã sở đắc và tặng ban huệ-lộc cho ta trước. Chính Ngài yêu thương ta trước. Nên, đó chính là lý do khiến hữu-thể-tạo-vật-là-ta không chỉ mới vừa xuất hiện hoặc đang trên đường tìm kiếm, nhưng đã hiện hữu trong Chúa; đã được tìm thấy trong Chúa. Chúa và hữu-thể-tạo-vật-là-ta ở trong nhau, và với nhau. Ta hiện hữu ở đây là để cảm-tạ Chúa, ngay từ đầu, Ngài đã kiếm tìm ta và thấy ta, trong Ngài. Tóm lại, chính Chúa tìm ta trước vì Ngài thương ta ngay từ đầu và Ngài đã có ta trong bản-thể cao cả của Ngài. Đó chính là chân lý. Đó, mới là điểm son trong quan hệ giữa Chúa và ta.
Trong cảm nghiệm mối tương-quan mật thiết ấy, cũng nên ngâm lời thơ còn bỏ dở:                           

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,”
“ta oặn mình trong những khổ tâm riêng.”
Em còn nhỏ làm sao mà biết được,
Đời buồn hiu như lá rụng, ban đêm.”
(Nguyễn Tất Nhiên – Vài Đoạn Viết Ở Đinh Tiên Hoàng)

            Viết đâu thì viết, đời người đâu nào đã buồn hiu vì lá rụng ban đêm. Đời người/đời ta vẫn không buồn dù ngày hay đêm, một khi đã biết và hiểu rằng Chúa đã có ta và ta đang ở trong Chúa, rất mừng vui.
  
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá luợc dịch

Saturday 24 August 2013

“Một lần nào cho tôi lại gặp Em,”



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ 22 Thường niên năm C 01.9..2013

“Một lần nào cho tôi lại gặp Em,”
“rồi thiên thu, sẽ là nhung nhớ.”
(dẫn từ ý nhạc của Vũ Thành An)
Lc 14: 1, 7-14
Thiên thu nhung nhớ, không chỉ nhớ mỗi người em ở nhà mà nhà thơ từng gặp, đã tạc ghi. Ngàn đời ghi tạc, còn ghi lời dặn dò của Đức Chúa từng nhắn nhủ dân con mọi người, ở khắp nơi.
Trình thuật thánh Luca, nay cũng ghi tạc Lời Chúa nhủ khuyên dân con mọi người ở nhiều nơi: từ chốn nguyện cầu ở hội đường, cho đến Vườn Dầu, bàn tiệc, nhất nhất đều có Lời vàng răn bảo, khiến người người mỗi khi nhớ đến đã thấy lòng đầy cảm-kích, vì tin tưởng. Nhưng, với người thời nay, lại không mấy tin yêu và tưởng nhớ Lời Ngài từng hấp dẫn họ.
Đọc kỹ trình thuật, người đọc thấy Chúa nói về 2 chủ đề chính, rất nghịch lý. Nghịch, là bởi đề tài Chúa nói, cũng nghịch và chống cả lý lẽ người đời, nhất là: khiêm hạ và tưởng thưởng. Nghịch lý/nghịch thường, là bởi hai đề tài này rất khó song hành/sánh đôi, trộn lẫn. Và, nghịch thường/nghịch lý nếu người người lại sẽ đưa Lời Chúa vào với cuộc sống hiện-thực, ở đời thường.
Bằng cụm từ khiêm/từ tốn, người đời thời nay cũng thấy như thể mình đang lạc lõng, rất khó chịu. Khó chịu, bởi nó khiến con người phải hạ mình đến cùng tận, thật thấp. Thấp đến độ, nó không hấp dẫn đủ để được đề-bạt công ăn việc làm hoặc sứ vụ nào cao đẹp nhưng khiến người được đề-bạt phải gia tăng năng-lượng mình đang sở-hữu mới có cơ may đạo đạt nguyện ước.
Thời cổ xưa, người người đều cổ-súy tính khiêm-hạ theo nhiều cách. Thời mới này, người người lại chỉ thăng tiến rất nhiều thứ, khiến tác-tạo động-lực phát-triển nhân bản, toàn diện. Người thời nay, hầu như quyết-tâm tạo cơ hội toả sáng, cốt lôi cuốn/khuyến-dụ người khác bằng việc thăng-tiến cá-nhân đạt thành-tựu, ngõ hầu có cơ ngơi/vị thế rất cao như lòng mình ao ước.
Khiêm hạ, như thể chỉ muốn mình có ít thôi, hoặc chỉ muốn ở vào vị thế thấp kém, chứ không màng chuyện cao sang, quyền qúi, lễ nghĩa. Chọn như thế, đôi lúc cũng đặt người chọn vào tình-huống oái oăm, như thể khinh chê/ghét bỏ chính con người mình, hoặc muốn xa lánh cuộc sống thực tế ở thế-trần, nhất là theo cung cách rất vô-thức. Trong khi đó, tính xông-xáo/xục sạo làm cho con người trở thành chủ thể mang tính-chất rất “người” hơn, chứ không hẳn chỉ coi thường chính mình, hoặc chống lại chính con người mình.
Nghịch-lý/nghịch-thường ở đây, là nhu cầu giữ cho con người mình những điều tích-cực chứ không nhắm vào các yếu/kém của con người. Thành thử, vấn-đề đặt ra là: Làm sao giữ cho con người mình có ý-nghĩa, đồng thời vẫn khiêm hạ cách sâu xa được? Làm sao ta có thể thích đồ vật, yêu con người mà vẫn thấy mình không cần đến người ấy/vật ấy, nên cứ để mọi sự ra đi, không níu kéo? Làm sao ta có thể nói mình thật thà đủ để cứ phạm lỗi cho nhiều rồi lại nghĩ mình là người rất đáng thương? Và, phải chăng Chúa vẫn yêu ta khi Ngài biết rằng ta ra như thế?
Có nhiều loại khiêm nhu/hạ mình cũng lại sai trái vì dựa vào lỗi phạm, để xin xỏ. Xin xỏ, để những muốn xoa dịu cơn giận của Chúa hoặc đổ lỗi cho Chúa làm mình sa ngã, những phạm lỗi. Vậy thì, hỏi rằng ta sống theo kiểu khiêm nhu/hạ mình theo kiểu nào đây?
Xem ra, như thể Chúa nhắn nhủ dân con mọi người: hãy sống khiêm hạ trước đã, tự khắc sẽ được Ngài đoái hoài, xót thương. Nhưng ở đây, Đức Giêsu lại cứ tiếp tục nói với những người đến với Ngài. Ngài đề nghị: mai ngày, Ngài sẽ mời gọi những người có nhiều nhu cầu hoặc cần được giúp đỡ hơn, tức: những người không thể đáp lại lời mời của Ngài. Như khi xưa, nhiều nơi có thói quen được mời đến dự tiệc, khi vào bàn, thường có khuynh-hướng mời lại chủ tiệc đến ngồi cùng bàn với mình, dù chốc lát.
Nhưng, Chúa chỉ tập trung vào những người không có khả năng sống lịch-duyệt theo cách ấy. Ngài chỉ tập trung hướng về những người biết nói vỏn vẹn hai chữ “Cảm tạ”, mà không thể mời lại Chúa được. Bởi, họ không có chỗ ngồi riêng biệt và không có được lần thứ hai như thế nữa. Mời những người tương-tự, ta không thể mong chờ một trả lễ nào hết.
Vậy, hỏi rằng: phải chăng khi đã sống khiêm hạ rồi, ta cũng được thưởng như thường chứ?
Đúng. Trông chờ được tưởng thưởng, là thái-độ đôi khi cũng có đôi chút ngờ vực. Ta được dạy: hãy yêu thương người đồng loại cách độ-lượng. Nhưng hỏi rằng: có độ lượng chăng nếu ta làm thể chỉ để lĩnh nhận phẩn thưởng do Chúa hứa? Độ-lượng như thế có nghĩa gì? Làm thế phải chăng có tính toán, hơn thua? Phải chăng đó là thứ “thuốc phiện” ru ngủ mọi người, hầu chỉ để ta nghĩ đến phần thưởng vĩnh-cửu nếu ta tìm sự công bằng ở đây, bây giờ? Phải chăng làm thế sẽ làm hạ giá công bằng xã hội và đưa ta ra khỏi tinh thần của Phúc Âm?
Thật ra, Tin Mừng hôm nay không chỉ kể về 2 sự kiện được nhắm đến, là: Khiêm tốn/hạ mình rồi sẽ nhận được phần thưởng, mà chỉ là tiến trình hoạt động, đó là: việc khiêm hạ, tự nó không bao giờ dứt điểm. Và, phần thưởng không hề có nghĩa sẽ đến vào thời sau. Cần xét kỹ, tính “khiêm hạ”. Đừng mang ảo giác vào những chuyện như thế, nhưng hãy sống thực tế.
Thật ra, ta không là người háo-hức/bốc đồng chỉ mơ mộng chuyện lạ nhưng thật sự, cũng không hẳn là hư không hoặc gần như không. Chúng ta là những người có hạn chế, nhưng vẫn có đôi chút khả năng để làm việc gì đó. Ta chẳng có lợi gì khi cứ đánh giá thấp khả năng của chính mình, cách ảo tưởng. Cũng hãy nên nhìn vào chính mình, như là ta, một người thực. Theo cách nào đó, ta cũng không nên đầu hàng/bỏ cuộc trước cố gắng đạt thành-tựu nào đó, khả năng ấy nằm sẵn trong ta. Nó là một phần của sự việc ta tìm cách kiến tạo. Ta không hề thấy ổn định, nếu chỉ có ít ân huệ.
Trong ta, vẫn có nhiều khả năng, và yếu tố tích cực mà có khi ta cũng không biết rõ. Chúa đã tặng trao cho ta; và Ngài muốn ta sử dụng các khả năng đó để hoàn-thành những gì tốt đẹp. Tốt và đẹp, không là phần thưởng ta sẽ có vào thời cuối, mà là những gì ta đã và đang có, những thứ không nằm bên ngoài con người của ta, nhưng ở ở sẵn bên mình. Dù, ta có là ai đi nữa.
Vì thế nên, điểm chính yếu, là: ta được Chúa mời gọi sử dụng những điều tích cực ở trong ta, bằng tình thương-yêu ta vẫn có. Yêu thương, không vị kỷ mà chỉ hướng ngoại, tức trực chỉ về người khác. Ta hiểu được mình phải yêu thương người khác, chứ không chỉ yêu thương mỗi chính mình, rồi loại bỏ hết mọi người nào khác. Ta được tạo-dựng là để sẻ san những gì tích cực của ta, sẻ san chính con người của ta cho người khác. Sẻ san, vì lợi ích của người khác.
Khiêm tốn/hạ mình cách đích thực như Chúa dạy, ở đây, nghĩa biết chào đón mọi “người khác” mà không cần trông đợi họ đáp lại điều gì có lợi cho ta. Ở đặc tính khiêm hạ, ta buộc phải trở nên bé nhỏ trước mặt Chúa. Điều này có nghĩa: hãy đặt mình vào địa vị của Chúa, để làm những gì Chúa muốn ta làm ở đâu, khi nào Ngài muốn ta làm thế. Chúa luôn muốn nhiều hơn cho người khác. Trở nên khiêm hạ, là từ bỏ loại hình công chính cũng như lợi ích của ta và để cho sự công chính của Chúa được hoạt động ngang qua ta, vì lợi ích của những người có nhu cầu đích-thực. Ta đang được Chúa “tuyển dụng” để ban bố tình yêu đến với người khác. Để tình-yêu xảy đến với những người thật sự có nhu cầu tình-yêu.
Chúa vẫn ủng hộ tinh thần bất vị kỷ, không hám lợi hám danh. Đó là chuyện hiếm thấy, dù với người tốt lành nhất trong thế gian. Vấn đề là: ta hãy từ bỏ các lợi lộc của chính ta. Đừng mặc cho nó tầm quan trọng, thiết yếu, nhưng quyết đem lại công bằng chính trực và bác ái với người khác. Có thể, đây là thuyết lý khó lòng thực hiện. Cũng là, lý thuyết chỉ biết cho đi, chứ không nhận lĩnh vào với mình.
Tuy nhiên, đó là thuyết rất có lý lẽ, như thánh Phaolô từng nói về Chúa rất thực như thư thánh-nhân gửi tín hữu ở Phillíphê, rằng: “Ngài, phận là phận của một vị Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nghĩ phải giằng cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa. Song Ngài đã hủy mình ra hư không, là lĩnh lấy thân phận tôi đòi, trở thành giống hẳn người ta, đem thân đội lốt người phàm. Ngài đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá.” (Phil 2: 6-8)
Chúa không trở nên thấp hèn để có được phần thưởng vào đời sau. Ngài trở nên như thế, là để yêu thương con người, yêu thương ta đến độ chịu mọi yếu kém/thiếu thốn cốt chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với con người đến cùng tột. Và, đó là lý do khiến cho khiêm hạ theo kiểu của Ngài sẽ không bao giờ chấm dứt, bao lâu Chúa còn là Chúa, và cho đến khi người nghèo hèn, vẫn có đó, vẫn rất nghèo.
Trong tâm tình cảm thông tình thương yêu của Chúa, ta lại ngâm lên lời thơ hay, mà rằng:

“Một lần nào, cho tôi lại gặp em,
Rồi thiên thu, sẽ là nhung nhớ.”
(Vũ Thành An – Một Lần Nào Cho Tôi Lại Gặp Em)

Gặp thế rồi, em hay tôi cũng sẽ nhung nhớ. Nhớ Chúa. Nhớ Em. Nhớ hết mọi người từng yêu người, đến muôn đời.
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh – Mai Tá luợc dịch

Saturday 17 August 2013

“Ôi phép lạ, ôi nhiệm mầu,”



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ 21 Thường niên năm C 25.8..2013
“Ôi phép lạ, ôi nhiệm mầu,”
“Vườn tiên sáng láng, như lòng người thương.”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Lc 13: 22-30 / Lc 12
            Phép lạ nhiệm mầu, là phép rất lạ của tình thương-yêu Chúa diễn bày cho mọi người. Như, trình thuật rày ghi chép.
            Đọc trình thuật thánh Luca, ra như có người muốn hỏi: vào cửa hẹp, phải chăng có nghĩa: mọi người đều được cứu rỗi, hay chỉ người nghèo/kẻ hèn, không nơi nương tựa, đoái nhìn mình? Vào cửa hẹp, phải chăng là sống như người nghèo, chẳng mơ ước chuyện tương lai, vẫn sống nghèo?
            Trình thuật thánh Luca, nhiều đoạn nói về thân phận nghèo được Chúa đoái thương/cổ suý như lối sống vẫn thấy ở đời. Có nhận xét bảo rằng: sở dĩ thế giới này nghèo dần đi, là vì người người cứ tiêu xài phung phí mọi trữ-lượng ở địa cầu. Lâu nay, người người chỉ chú tâm đến chuyện tăng gia khai thác tài nguyên thiên-nhiên, gia tăng tiêu thụ mọi thứ, cả những thứ lẽ đáng không để cho riêng mình mà dành để cho con cháu, thế hệ sau.  
            Nhiều người, lại cứ nghĩ: mình vốn là trung tâm vũ trụ nên có quyền hưởng thụ đủ mọi thứ ngõ hầu thỏa mãn nhu cầu không dứt của mình. Có vị, lại cứ tưởng: cõi địa cầu và tinh tú nằm trên địa cầu phẳng lì, nên chẳng việc gì phải lo cho trái đất. Thế nhưng, khoa-học nay báo động rằng: ngân-hà-nhà-mình đang ngày càng xa rời ta, cũng rất chóng. Chẳng mấy chốc, người người sẽ không còn thấy bầu trời đầy tinh tú như xưa/cũ, nữa. Và, hệ thống mặt trời ta đang sống, sẽ ngày một chết dần, là do: ta ở giữa chu kỳ hoạt động của hệ thống ấy.  
            Vấn đề đáng ta quan ngại không nằm ở dữ kiện thấy vũ trụ đang tàn lụi dần, nhưng nằm ở thái-độ của mọi người, chí ít là ở trong đầu mỗi người. Bởi, nếu cứ “vùi đầu vào cát” như loài chim trĩ, ắt hẳn ta sẽ không giải quyết được vấn-đề, và cũng chẳng thể sống sót trong tình huống ấy.
            Thái-độ này, tựa hồ động-thái ta vẫn có đối với thuốc chủng ngừa cúm vào lúc mới sáng chế; hoặc, như cuộc bầu phiếu gia-nhập Hiệp hội Châu Âu, khi nhóm này lần đầu được đề nghị, vv. Cũng không khác, tình-huống thế-tận mọi người lo sợ vào cuối năm 2000. Khi ấy, các chuyên-gia bị coi như sức mạnh của quỉ ma, chẳng ai tin. Và, sự thể là: người người đều có tầm nhìn khác biệt, rất sợ thiên-nhiên vạn vật sẽ đổi khác, và họ không muốn thay đổi lối sống cũ/xưa, chỉ tập trung vào chính mình, theo kiểu cách rất vị kỷ.
            Nay, là lúc để mọi người quay lại nhìn vào tình-huống vũ-trụ ta đang sống. Vào, chính con người mình, bởi mình và người đều là thành phần của vũ trụ. Từ năm 2008 đến nay, nhiều người đều nói đến hiện-tượng “khí hậu đổi thay”, tức: lối “viết tắt” của vũ trụ đang ngày dần sụp đổ. Con người bỗng chốc thức giấc trước hiện tượng ấy. Nhưng, chẳng ai thức dậy hoặc thay đổi lối sống của mình, vì mọi người vẫn khát khao có được nhiều thứ: từ năng lượng, tiền của đến tài nguyên thiên-nhiên. Khao khát, vì mọi người không hài lòng về mức độ mình sở hữu. Vẫn khát khao không ngừng, cả kinh tế lẫn tài nguyên môi trường. Nhưng, thiên nhiên đất mẹ chẳng thay đổi lối cung cấp nguồn mạch sống, khác trước đây.
            Điều tệ hại, là: con người vẫn tham sống và coi cuộc sống rất ham làm thành thứ thiên-nhiên-tự-tại của cuộc sống, và coi đó như chuyện tự-nhiên thường tình của đời sống. Nên, cứ thế khai thác, hủy hoại môi trường thực tại. Hủy cả con người mình. Thành thử, nay là lúc mọi người cần ngưng kiểu cách ấy. Cần tái tạo ý nghĩa tùy thuộc thiên nhiên, hơn chính mình. Tùy, vào những gì mình không thể tạo ra “thiên nhiên”. Bởi, ta không là cá thể sống riêng rẽ chỉ hưởng lợi cho riêng mình, nhưng là thành phần sống động trên mặt đất, biết sẻ san, trung hoà, trộn lẫn sống với nhau/cho nhau.
            Hiển nhiên, là: thế giới ta đang sống sẽ trở thành một thế giới khác thời trước, như ta biết. Mỗi người và mọi người rồi ra sẽ chỉ sở-hữu tài nguyên vật-dụng theo tầm kích đúng đắn. Tầm kích, cả về cơ ngơi, thực phẩm, phương tiện di chuyển cũng như vật dụng đều của chung. Mỗi cá thể hoặc nhóm hội đều sẽ không hoàn toàn được tự do làm theo ý riêng mình, nhưng gò bó trong khuôn khổ do điều mình sở hữu hoặc những gì vượt tầm kiểm soát của chính mình. Bởi, trong tương lai, các hoạt động có tầm kích quốc gia hoặc quốc tế, sẽ chi phối khả năng của cá nhân mỗi người.
            Nhằm chuẩn bị cho một tương lai tươi sáng, cũng nên tìm đến các giải pháp khả dĩ chỉnh sửa tình-trạng tồi tệ trước khi nó trở thành quá trễ. Trước nhất, là đề nghị: tái định-vị địa-thế chốn miền ta sinh sống. Định-vị, không theo nghĩa tái-lập môi trường, mà vẫn sống tại chốn miền mình đang ở. Tái-định-vị, chỉ có nghĩa: bớt đi mọi chuyển-dịch đường dài, các chuyến bay đường trường để hội họp hoặc thảo-luận ở nơi xa. Bớt dần các chuyến đi xa, dài ngày nhiều tốn kém. Định-vị, còn là sử dụng phương tiện công cộng hoặc đi bộ nhiều hơn, cả khi ta có sẵn xe để đi.
            Chuẩn bị cho tương lai tươi sáng, còn là: giảm bớt thức ăn thừa mứa những thịt thà, tôm cá để rồi, thay vào đó bằng rau trái, đậu/hạt rất ích lợi. Đồng thời, cũng nên chỉnh sửa cung cách sử dụng máy móc chạy bằng xăng/dầu hay năng lượng điện. Sử dụng đèn thắp sáng hoặc máy lạnh/tủ lạnh cho hợp lẽ, ít phung phí. Nói khác đi, về lại với thiên-nhiên càng nhiều càng tốt, mới sống sót.
            Trình thuật thánh Luca còn cho thấy Chúa nói với người theo Ngài để mai ngày trở thành đồ đệ Ngài, rằng: “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Isaac và Giacóp…” (Lc 13: 28). Nói như thế, Chúa không có ý nhắn nhủ mọi người hãy có cuộc sống nghèo nàn hơn khi trước, nếu muốn ở lại với Chúa và những người sống rất nghèo, của Ngài; mà là: Ngài có ý yêu cầu mọi người hãy thay đổi cuộc sống sao cho hợp lẽ, ngay bây giờ.
            Sống hợp lẽ, như ý Chúa, phải chăng là: diễn đạt lập trường “sống cho thích hợp” thời của Chúa để rồi đưa lập trường ấy vào với cuộc sống thực tế của ta, hôm nay/mai ngày? Và, làm sao ta học được cung cách sống cho phải Đạo, có trách-nhiệm với kinh tế và môi trường theo quan niệm của tín-hữu?
            Để trả lời, có lẽ cũng nên định nghĩa lại tính “khó nghèo” khác hẳn những gì ta thường nói. Sự việc ta thường nói, là: đặt quá nặng lên khía cạnh tinh thần hoặc linh thiêng, chỉ một ý. Nói cách khác, ta chỉ nói, chứ chưa thực hiện đủ cung cách sống nghèo thực thụ, như người nghèo, theo đòi hỏi của Tin Mừng.
            Hội thánh Chúa, có nhiều vị vẫn khấn nguyện sống khó/nghèo trọn đời mình theo tư cách tu sĩ hoặc thừa-tác-viên.Và, vẫn sống đúng với lời khấn hứa ấy. Nếu các vị tu sĩ và cả ta nữa là mẫu mực cho tín-hữu Đức Kitô nay sống nghèo theo nghĩa môi-trường thiên nhiên cần phải sống, thì “khó nghèo” hiện tại mang ý nghĩa thế nào đây?
            Trả lời câu hỏi này, không phải để khuyến khích mọi người trở về với tình huống thuở đầu đời, thời Chúa sống. Nhưng, hãy cùng nhau ngồi xuống để cùng tìm ra giải pháp thích hợp cho mọi người, mọi thời, rất tự nhiên.
            Trong tâm tình ấy, cũng nên ngâm lại lời thơ trên để cảm kích:

“Ôi phép lạ, ôi nhiệm mầu,”
“Vườn tiên sáng láng, như lòng người thương.”
(Hàn Mặc Tử - Chơi Lên Trăng)

Chắc một điều, là: trở về với “vườn tiên sáng láng, như lòng người thương”, khi ấy ta sẽ thấy “phép lạ”, “nhiệm mầu” xảy đến với mọi người, cả với ta. Chính đó là Thiên Đường. Là, cửa hẹp không khó vào. Chỉ khó, cho người giàu có hoặc khó thương, mà thôi.                        
           
            Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh 
Mai Tá lược dịch