Saturday 26 May 2012

“Cả trời bỗng tiêu diêu như báu vỡ:


Suy niệm Lễ Chúa Ba Ngôi Năm B 03.6.2012
Cả trời bỗng tiêu diêu như báu vỡ:
“Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm.”
(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Mt 28: 16-20
Tiêu diêu như báu vỡ, vẫn cứ là bầu trời huyền nhiệm chốn không gian. Thầm dội đến thâm tâm, nay lại là nhiệm tích Chúa tỏ bày với nhân trần. Như trình thuật lâu nay, rày ghi chép.

Trình thuật, nay ghi chép về huyền nhiệm Chúa Ba Ngôi linh thiêng, khó diễn giải. Huyền nhiệm, là nhiệm tích cao cả tỏ cho dân con nào không cảm nghiệm được để rồi sống. Thế nên, thánh sử Mát-thêu phải dùng ảnh hình chiếc thang của thế giới hầu đạt tới huyền nhiệm, mà cảm kích.
Buổi đầu, vũ trụ ở độ tuổi 13 tỷ năm, vẫn đắm chìm trong tăm tối, kịp đến khi Chúa sờ chạm, nguồn sáng đã trỗi dậy toả ánh thiều quang, rộn sức sống. Thiều quang, là tập hợp các phân tử ánh sáng cứ lăn tăn dội sóng, không phương hướng. 

Vào lúc ấy, Chúa bèn định hướng để tạo thành có được năng lượng tràn đầy, mà hướng về đằng trước phía có nhân gian vũ trụ vạn vật. Và từ đó, vũ trụ tuân thủ đường hướng Chúa định đoạt rất phân minh, thành đạt. Trong khoảnh khắc rất nhanh, vũ trụ đã kịp hoà tan/chan hoà vào với nhau phản ảnh phương hướng Chúa đề bạt. Rồi từ đó, sản sinh nên sự sống mới ở đó có sự sống con người, rất trổi bật.

Sự sống Chúa tặng cho vũ trụ, là những “sự” rất sống và rất động, luôn rực chiếu ánh lung linh về hướng trước, nơi có Chúa ngự trị theo phương cách rất Ba Ngôi, vẫn rạng ngời. 

Ở với vũ trụ, con người là tạo vật gây nhiều thích thú. Con người không là loài vật chỉ đặc biệt mỗi trí khôn mà thôi, nhưng còn có khả năng mơ ước đặc trưng/biểu tượng để kết chặt với nhau bằng truyện kể đượm mầu thần linh rất kinh ngạc, đáng sợ. Thần linh nhiệm mầu cần “la-bàn định-hướng” hầu dẫn dắt con dân loài người kinh qua chốn miền đầy tâm tưởng. Và thọ tạo “người” cứ hỏi: không biết mình có nên thần phục thần linh, hay không? Không biết mình có tự do chọn quan hệ chỉ với một số vị thần, mà thôi không? 

Thiên Chúa lại ban cho con người “la-bàn” ấy. Bằng vào “la-bàn định hướng”, Ngài thiết lập “Giao ước” với con người. Điều đó có nghĩa: Chúa quan hệ với con người không theo cung cách khuynh loát/thống trị, huyễn hoặc hay không tưởng. Ngài chẳng cần ai thần phục Ngài. Nhưng điều Ngài cần hơn cả, là con người nên thực thi tương quan hai chiều. Có được tương quan ấy, con người sẽ tin tưởng vào Chúa là Đấng giúp cho con người có được tự do. Về với lịch sử, con người hiểu biết nhiều sự việc, và từ đó biết tỏ lòng cảm kích, ghi ơn Ngài.

Khám phá ra điều này, có người vẫn chưa biết cách chan hoà/nhào quyện với những người không được như mình, dù họ có tìm mọi cách để tìm hiểu khám phá ấy. Họ đành chọn một trong hai phương cách: hoặc tách riêng sống chỉ một mình, hoặc hợp lực/cộng tác với người khác. Thật ra, thì họ rất cần “la-bàn định-hướng” Chúa ban tặng. Và, Chúa lại tặng ban “la-bàn định hướng” ấy, thêm lần nữa. 

La-bàn Chúa tặng, là quà “hiệp thông”/tương quan giúp con người sống hài hoà với người khác mình, nhưng không làm mất đi bản chất tư-riêng của chính mình. Nhờ “Hiệp thông”, con người học được cách yêu thương sống hài hoà với người khác, ngõ hầu trở nên giống mình hơn. Nhờ vào hiệp thông, con người còn có trách nhiệm với thế giới rộng lớn hơn, tức: có trách nhiệm với những người chưa biết hoà mình/trộn lẫn với ai khác. Thế nên, ta cũng hãy nên bắt đầu sử dụng quà “Hiệp thông” Chúa đã ban.

Khi xử sự, con người bắt đầu biết kinh ngạc và tự hỏi: không biết mình có nên kéo dài tương quan hài hoà ấy mãi lâu ngày, hay không? Hoặc, ta chỉ nên kiến tạo thêm cung cách mới cho đời mình? Cung cách mới, tức không phải của người thụ động cứ ngồi đó đợi chờ hoặc nhận lãnh ơn huệ đính hướng? Nhưng, cũng nên bắt đầu kiến tạo mọi việc chung cùng Chúa? Kiến tạo, là diễn lại những gì xảy ra trong quá khứ, hoặc đem lại những gì mới mẻ cho tương lai của chính mình? Muốn được thế, con người cần đến “la-bàn định hướng” Chúa tặng ban, một lần nữa. Và, Chúa lại đã tặng thêm cho con người thứ “la-bàn định hưóng” mới là “Thần Khí” của Ngài, để con người biết mà chan hoà quá khứ với tương lai, hầu biến nó thành hiện tại. Một hiện tại mang ý nghĩa rất “quà tặng”. 

Quà tặng Thần-Khí-Chúa, là quà hiếm quí rất hiện tại nhưng khó diễn bày hoặc nói đến. Bởi, Thần Khí Chúa vượt quá mọi ngôn ngữ. Thần-Khí-Chúa là Hơi Thở đẩy lùi mọi ngọn gió của ngôn ngữ được con người sử dụng để diễn tả mọi chuyện. Ngược lại, Thần Khí vẫn nâng nhấc con người lên, để họ đạt chốn an lành, mà định hướng bước tới về phía trước.

Quà tặng Chúa gửi đến với con người, không đơn thuần chỉ mỗi giống giòng Israel dân Chúa chọn. Cũng không thuần khiết chỉ mỗi Đức Giêsu và/hoặc Hội thánh. Nhưng, “Giao ước” Chúa gửi đến với ta qua dân Do thái, chính là sự “Hiệp thông” Ngài đặt để qua Đức Giêsu, Con Ngài. Và Thần-Khí-Chúa đến với ta ngang qua Thánh Hội, Chúa gửi gắm. Quà Ngài gửi, là để dân con của Ngài có thể đến với người khác, nhóm khác có văn hoá, sắc tộc và đạo giáo rất khác biệt. Quà Chúa gửi, là để con người tạo được ý nghĩa nhân bản cho luồng sáng, thời gian và năng lượng toàn vũ trụ. Quà Chúa tặng, khiến cho con người có được tự do, biết ứng đáp cách sáng tạo, nhạy bén và đổi mới.
Quà Chúa gửi tặng, là cách để Thiên-Chúa-là-Cha trao ban chính Mình Ngài là Đức Chúa cho con người như Giao ước, Hiệp thông và Thần Khí. Chính đó là Chúa Ba Ngôi, vẫn rất thực.

May cho ta, là con người đã nhận ra rằng quà tặng Chúa gửi là do Ngài tặng ban chính Mình Ngài vẫn còn tiếp tục được như thế. Quà-tặng-là-Thần-Khí-Chúa, vẫn hiện diện bên ta, ở đây. Ngay lúc này. Điều không may khác, đó là: con người lâu nay hay gặp rắc rối về những khuynh loát/áp đặt và về sự tự do Chúa ban cho nữa. Con người gặp rắc rồi, vì ý tưởng nảy sinh khiến họ phải đi đến quyết định: hoặc xa cách/tách rời “Quà-Tặng-là-Thần-Khí-Chúa hoặc hợp lực/cộng tác với “Quà” của Chúa. Đó, là ý tưởng về việc duy trì quá khứ và kiến tạo tương lai, để rồi mỗi khi ta nhận thức được rằng: Thiên-Chúa-là-Cha, Chúa Con là Lời và Thần-Khí-là-Tình-Yêu đang sờ chạm vào ta cốt để tỏ cho ta biết phương cách mà đến được với Ngài.

Không phải chỉ bây giờ, ta mới về lại với lịch sử để có được cảm giác về Huyền Nhiệm. Nhưng từ đầu, có người lại được thần hứng sử dụng ngôn ngữ trần gian để tỏ bày về Huyền Nhiệm này, dù trước đó họ chẳng bao giờ biết đến Huyền Nhiệm ấy. Và, họ cũng đã tìm hiểu lịch sử vũ trụ xem có gì được đặt thêm vào đó không. Họ tỏ bày về “Danh” Chúa. Về, “Huyền Nhiệm” Chúa Ba Ngôi. Và, về “Tình yêu” của Chúa. Họ gọi Chúa là Cha. Gọi Đức Giêsu là “Con”-của-Chúa-Cha, Đấng gần gũi mật thiết với Cha; và gọi Ngài là “Lời” của Cha. 

Họ gọi Tình-Yêu-Thiên-Chúa là Thần-Khí vẫn thổi đầy sinh lực ở nơi Chúa, vào ta và tạo nguồn thần hứng cho ta. Kể từ đó, nhiều vị thức giả trong cộng đoàn dân Chúa lại tìm cách diễn tả Huyền Nhiệm Chúa Ba Ngôi cho những ai tìm hiểu triết lý Hy Lạp, đều biết rằng: ở nơi Chúa, chỉ có một Bản chất duy nhất nhưng nơi Ngài bao gồm ba Nhân Vật: một là Chúa Cha, một là Chúa Con hoặc Ngôi Lời, và một là Thần-Khí-Chúa. Các ngài đều quả quyết rằng Ba Ngôi/tức Nhân Vật vẫn chỉ là Một, có quan hệ hỗ tương. Và, Thiên-Chúa-là-Cha đã gửi đến với ta Con Một của Ngài để ta có thể liên hệ cách mật thiết với Ngài. Để, Ngài hướng dẫn cuộc sống của ta ở thế trần, rồi đem ta về với Cha. 

Nhưng vấn đề là: không biết Thiên Chúa có thực sự giống thế không? Kitô hữu thời xưa không hiểu rõ điều đó và cũng chẳng chứng mình được gì, nhưng tư tưởng này đáp ứng ý nghĩa của Thiên Chúa mà mọi người dựa vào đó để sống. Vì thế nên, công thức này cũng thánh thiêng/linh đao, vẫn đan kết với truyền thống Giáo hội.

Ngày nay, nếu hỏi rằng ta làm được gì khá hơn không để diễn tả Huyền Nhiệm Chúa Ba Ngôi? Có thể không. Không bao giờ. Nhưng, có thể có. Có, qua cung cách nhận thức phát hiện được những điều Chúa Ba Ngôi vẫn thực hiện trong trần thế. Có thể, ta cũng nghĩ là mình có nhiều nhu cầu hiểu biết và diễn nghĩa hơn đồng đạo thời xưa trước. Có thể là, trong tương lai, ta lại có được cảm nghĩ và cảm nghiệm nhiều hơn về công việc của Chúa Ba Ngôi. Đó cũng là điều hay, để hy vọng.

Và rồi, ai ai cũng sẽ ra đi rời bỏ thế giới nhân trần này, để về với Ba Ngôi Thiên Chúa. Và khi đó, mọi người đều sẽ trực diện Chúa biết Ngài là ai? Đấng nào? Và mọi sự có ý nghĩa gì? Trong thời gian chờ đợi đến ngày đó, ta vẫn phải sống với niềm tin mình đang có. Sống chung và cùng với nhóm người đang sử dụng ngôn ngữ Chúa tặng ban. Những người có kinh nghiệm về những ân huệ Chúa gửi đến hầu thúc giục ta cùng với Chúa hướng về phía trước để ta càng nhân bản hơn; càng cùng chung với Chúa, trong mọi việc. Cuối cùng, có lẽ đó là những gì Chúa thực lòng muốn có khi Ngài tỏ rõ cho ta biết Chúa là Cha của ta. Đức Giêsu là Con Một của Thiên-Chúa-Là-Cha, và Thần-Khí-là-Tình-Yêu Ngài hằng ban cho ta.

Để cảm nhận điều này, cũng nên ngâm tiếp lời thơ trên từng diễn tả:

            “Cả trời bỗng tiêu diêu như báu vỡ;
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ D(ấng Tiên Tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm.”
(Hàn Mặc Tử - Nguồn Thơm)

            Đấng Tiên Tri, nay vẫn đứng giảng Phúc Âm Lời Chúa đấy chứ. Giảng, để biết rằng tất cả không là “tiếng vang thầm dội đến thâm tâm”; mà là, tiếng Chúa/tiếng người qua ngôn ngữ diễn bày một huyền nhiệm rất Ba Ngôi. Theo cung cách rất thiêng, và cũng rất người.
           
Lm Nuyễn Đức Vinh Sanh,
Mai Tá phỏng dịch

Saturday 19 May 2012

“Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang,”


Suy niệm Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống Năm B 27.5.2012

Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang,”
“Thiên hạ bình và trời tuôn ơn phước”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Ga 20: 19-23; 15: 26-27/16: 12-15
            Ánh thiều quang, nay nhuần gội khắp dân gian, muôn ơn phước, Thiên hạ bình, trời đổ tuôn ơn phước Chúa ban, như trình thuật còn diễn tả từng chữ, rất đủ nghĩa.

            Trình thuật, nay thánh sử ghi về Lễ Hội trải dài từ Chay Mùa tâm tịnh cho đến Phục Sinh quang vinh mà người Do thái vẫn mừng kính vào độ Xuân về có hái gặt suốt 50 ngày dài, sau Vượt Qua. Mãi sau, người Do thái mới thay đổi ngày này thành đại lễ kỷ niệm mừng Giao ước Chúa thực hiện với dân con ở Sinai núi thánh bừng bừng niềm vui khó phai mờ.

Ngay buổi đầu, sau cái chết và sự trỗi dậy của Chúa, đã thấy hai nhóm đạo ở Giêrusalem nổi lên tìm về Đất Hứa. Nhóm đầu, cũng khá đông, gồm những người đạo hạnh từ khắp nơi đổ về. Họ về, từ đất miền thuộc xứ Giuđêa, Mêsôpôtamia, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và Lybia, tức: đến từ khắp mọi nơi. Nơi nào cũng rộn rã người Do thái ồn ào/náo động tụ tập về để mừng kính lễ hội. Nhóm thứ hai nhỏ hơn, nhưng gồm các đấng bạc đã từng theo chân Chúa bước trong âm thầm/lặng lẽ rất đợi chờ, nguyện cầu.

Họ thật chẳng biết mình cầu nguyện là nguyện và cầu cho ai. Để làm gì? Bởi, thời gian cứ lặng lẽ trôi nhiều tháng ngày sau cái chết của Chúa, thế mà nhóm đạo này vẫn ẩn mình trong bóng tối, cứ hãi sợ mọi chuyện xảy đến sẽ liên lụy đến bản thân. Có thể, các ngài chỉ muốn về lại thăm chốn cũ người xưa, nơi Chúa bỏ mình chết rất nhục nhưng rồi Ngài Phục Sinh quang vinh. Hai nhóm đạo chẳng quan hệ gì với nhau. Nhóm đông người, đến từ các nơi, lại không biết rằng những người theo Chúa đang có mặt ở nơi đó. Và, nhóm nhỏ gồm các đấng bậc/đồ đệ lại chẳng muốn mọi người biết các ngài đang hiện diện ở chốn này.

Nhưng, chuyện phải đến lại đã đến với các đấng bậc từng hãi sợ. Các ngài lại đã xuất hiện trước công chúng lôi kéo sự chú ý của mọi người. Và, sự việc xảy đến khiến các ngài tràn đầy Thần Khí Chúa đổ tràn từ bên trên. Chuyện xảy đến, như một thứ “trời long đất lở” có sấm sét, có lửa ngọn thiêu đốt tâm can người người, đem đến cho họ nhiều nghị lực, có tâm thức. 

Lửa hồng hâm nóng, khiến các ngài trở nên tươi mát, đổi mới, rất lành lặn. Lửa hồng sưởi ấm, còn đem đến với các ngài nhiều ơn lạ khác. Nên, các ngài bèn tiến ra ngoài, nói chuyện với người chưa một lần quen biết đến như một xác chứng: “Đức Giêsu, dù đã chết hôm trước, nay Ngài vẫn sống và đã gửi Thần Khí đến với mọi người.” Và lúc đó, mọi người bất chợt nói được tiếng Aram, ngôn ngữ cổ xưa của Do thái.

Người có mặt, cũng đều nghe và hiểu sự việc bằng chính ngôn ngữ của mình. Và khi ấy, lại thấy xảy ra một bộc phá dứt bỏ mọi lằn ranh/ngăn cách của ngôn ngữ, địa dư và sắc tộc. Sự việc xảy ra không mang dáng dấp của rẽ chia/phân cách. Mỗi người đều cảm nhận sự việc xảy đến bằng chính văn-hoá cũng như văn-minh/lề thói của người mình. Tất cả, là thông điệp rõ nét, rất dễ hiểu. Là, sự kiện mới, đã xảy đến với muôn dân.

Mỗi nguời và mọi người, nay hiểu rằng Thần Khí Chúa kích động mọi người phổ biến sứ điệp Ngài tặng ban để ý Ngài được thể hiện và phổ biến khắp mọi nơi trong thánh hội, và cuộc sống. Thể hiện, nhờ thanh tẩy. Phổ biến, nhờ Thần Khí Chúa mang sức sống đến hầu người người tự thánh-hoá bản thân. Đôi khi, nhiều người lại vẫn nghĩ: nhờ Thần Khí Chúa run rủi, nên mọi người mới có được giờ phút thăng hoa, phấn khởi. Người khác lại cứ hiểu: Thần Khí Chúa vẫn lặng lẽ xuất hiện ở hậu trường sự sống cố hỗ trợ việc chỉnh sửa mọi sai sót/lỡ lầm ngõ hầu người người mới truyền bá được Tin Vui Ngài mang đến. 

Cũng có lúc, nhiều người cứ lầm tưởng rằng đôi lúc Thần Khí Chúa cũng vắng mặt khỏi hiện trường sự sống, khiến họ cứ đơn độc, lẻ loi. Nhưng thánh Phaolô lại bảo: Thần Khí đến với ta, thường vào lúc ta sướng vui, quyết thương yêu đùm bọc và đối xử tử tế với mọi người. Nhìn vào cuộc sống của Chúa, người người đều thấy Ngài luôn có mặt ở cạnh bên, nếu ta biết sống thực đường lối Ngài khuyến nghị, tức: cứ để Thần Khí hướng dẫn và phô diễn cuộc sống ấy với mọi người.

Nhưng, với thế giới ta hiện sống, nay đã có vấn đề. Vấn đề, nay thấy xuất hiện hai nhóm người cũng khác biệt. Một, gồm những người sống rải rác khắp đó đây, từng nghe biết Chúa. Biết rằng, Ngài đã chết đi cho tội lỗi của con người và Ngài đã Phục Sinh quang vinh. Biết rằng, vào lễ Ngũ Tuần, Ngài đã gửi Thần Khí Chúa đến với dân con mọi người. Người người đều biết, do tiếp cận mạng truyền thông, vi tính. Nên, ngày nay chẳng một ai cần đến các nhà truyền giáo kiểu xưa cũ cứ đem đến với họ những lời là lời, mà họ chẳng hiểu lời đó có nghĩa gì. Lời đó, có đòi họ sống giống Chúa không, trên thực tế. Làm như thể, họ chưa từng biết đến những chuyện như thế. Làm như thể, những điều họ nghe biết chẳng liên can gì đến cuộc sống thực tế. Cũng chẳng giống như ngôn từ họ sử dụng. Nên, mọi người chỉ cần các “thừa sai” nào biết và sống như Chúa từng sống, mà thôi.

Nhóm còn lại là chúng ta, tức thánh hội của Chúa rất hôm nay. Nhóm của ta cũng trân quý lời Chúa gửi đến với ta. Cũng hiểu đôi chút về Ngài. Nhưng, vẫn không biết cách loan truyền nhận thức ấy với dân gian, ở khắp chốn. Cũng “đi” nhà thờ hàng tuần, nhưng không “đến”. Tức, chẳng hấp thụ thêm được điều gì. Có chăng, cũng chỉ đôi ba ý tưởng vặt vãnh từ bài chia sẻ của vị chủ trì thôi, để rồi ao ước mình có được hy vọng. Ao ước, có được một Ngũ Tuần khác khi đó Chúa sẽ đổ muôn ơn lành đến với ta và mọi người; ngõ hầu ta biết đả thông chuyện của Chúa, như một số Đức Giáo Hoàng vẫn dùng lời để diễn tả về “lễ Ngũ Tuần mới” rồi sẽ đến, nhưng chưa đạt.

Dân con Đạo Chúa nay lại bảo: lễ Ngũ Tuần là đảo-đề về những gì từng xảy đến hồi tháp Babel, trong Cựu Ước. Cũng cùng truyện kể về tháp do con người làm, khiến dân chúng khi đó lại cứ tập tành phát âm thành nhiều tiếng rất mới nhưng chỉ để nói và gây nhiều ngộ nhận. Ngộ nhận nhiều thứ. Ngộ nhận đến độ, người nói tiếng lạ chẳng hiểu nhau. Lễ Ngũ Tuần hôm nay phải hiểu là Lễ Hội này đã cắt bỏ mọi rẽ chia/phân cách. Là, dịp để mọi người hiểu nhau hơn. Hiểu, cả vào khi có người nói bằng ngôn ngữ lạ ít sử dụng. Xem như thế, Lễ Ngũ Tuần đã đảo ngược được thực trạng tháp Babel của mọi thời. Cả đến hôm nay, cũng như thế.

Bởi thế nên, thay vì bảo: “Họ sáng chế ra ngôn ngữ mới (tức tên mới) cho họ”, thì mọi người lại vẫn nói: “Họ tự đặt tên cho chính mình”, hoặc tìm cách để nên như thế. Và, vấn đề còn tiềm ẩn bên trong mỗi người. Bởi, khi tự đặt tên cho, là ta tự nói nhiều về mình. Nhiều đến độ không nghe người khác nói gì nữa. 

Thành thử, Ngũ Tuần hôm nay là dịp để Thần Khí đến với dân con/đồ đệ của Chúa để họ trở nên khiêm hạ. Ngũ Tuần, là dịp để không còn ai tự đặt tên cho mình, nữa. Làm thế, để con dân Chúa không còn cho mình là nhân vật quan trọng, lại rất nổi. Nổi đến nỗi, không nói về Đức Chúa là Đấng cuốn hút mọi người đến với Ngài. Làm như thế, là họ đã tự giảm giá và nghĩ rằng nay có nhiều cách thế để biết Chúa, chứ không chỉ có mỗi đường lối của Giáo hội mình. Làm thế, để ta nhận ra rằng: nếu cứ tập trung vào mỗi đường lối của riêng mình và cho mình là quan trọng, thì đó là hành xử cách bạo tàn với người khác. 

Ngũ Tuần, nay là lễ hội để dân con của Chúa biết sống cởi mở, tử tế. Cởi mở/tử tế, để đón nhận cả những người thua kém mình, khác với mình để họ gia nhập vào với cộng đoàn mình sống. Và, đó là lúc những người khác với mình bắt đầu hiểu Chúa hơn. Từ đó, sẽ cảm thông, truyền đạt và trao đổi. Để rồi, ta sẽ sẻ san cho nhau mọi sự tốt đẹp, kể cả nhận thức bằng trực giác, nói năng hoặc diễn đạt. Đó, là ý nghĩa của Lễ Ngũ Tuần, rất hôm nay.

Vậy, Lễ này có nghĩa gì với thời hiện tại? Nếu, Ngũ Tuần được gọi là ngày sinh của Hội thánh, thì nay xin chúc Hội thánh mình có được ngày sinh quá sức đẹp. Tuy thế, ta cũng nên làm sao có được lễ Ngũ Tuần đẹp hơn nữa, ngõ hầu trở nên loại hình thánh Hội mà Thần Khí Chúa vẫn muốn ta trở thành vào buổi Lễ Ngũ Tuần rất tiên khởi, thời Chúa vừa Phục Sinh, rất quang vinh. 

Thần khí Chúa muốn con dân mình trở nên tử tế, khiêm hạ và cởi mở. Biết, bao gộp hết mọi người vào với thánh hội mình. Biết lắng nghe người khác nói. Và, sẵn sàng sống đường lối và cách nói năng ra sao để mình thần phục lập trường của người khác. Chứ không chỉ lẻo mép, nói rất nhiều mà chẳng nói được ngôn ngữ của người thời đại, rất hôm nay.

Nên chăng, có một Hội thánh rất như thế? Nếu vậy, ta hãy nguyện cầu như sau:  

Lạy Thánh Thần Chúa, xin đến
Chữa lành vết thương lòng ở nơi con
Kiện toàn và canh tân uy lực của đời con,
Và tẩy rửa vết nhơ con lỡ phạm.
Hãy bẻ cong tâm can cùng nguyện ước vẫn đông cứng
Để con tim đông lạnh của con nay tan chảy,
hầu sưởi ấm lòng người lạnh lẽo.
Hãy dẫn dắt những người vẫn trật đường, đi chập chững… 

            Tâm nguyện thế rồi, cũng nên ngâm thêm lời thơ của nghệ sĩ ở đời vẫn hát giòng thơ Đạo, rằng:
                        “Ta há miệng, cho nguồn thơm trào vọt,
                        Đường thơ bay, sáng láng như sao sa…
                        Trên lụa trắng, mười hai hàng chữ ngọc.
                        Thêu như thêu, rồng phượng kết tinh hoa.”
                        (Hàn Mặc Tử - Nguồn Thơm)  
            Thơm một nguồn, cả ngôn ngữ lẫn tình thơ Thần Khí Chúa đem đến dân con, hết mọi người.  Nguồn thơm trào vọt, để người người lại sẽ thưởng ngoạn ơn thiêng Chúa gửi, hôm trước đến bây giờ.          

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá phỏng dịch

Saturday 12 May 2012

“Hồn hỡi hồn, lên nữa, quá thinh gian,”


Suy niệm Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên Năm B 20.5.2012

“Hồn hỡi hồn, lên nữa, quá thinh gian,”
“Tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực.”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Mc 16: 15-20
Hồn tìm chốn chiêm bao chờ đón Chúa lên cao, lên cao nữa, “quá thinh gian”. Ngoài sự thực. Sự rất thực, nay được thánh Máccô xác quyết ở trình thuật rất hôm nay.

Trình thuật thánh Máccô nay kể, khiến người đọc liên tưởng đến huyền thoại La Mã nói nhiều về Hoàng đế Caesar được thần thánh hoá, đã lui về chốn thiên đường, sau cái chết. Nhưng, Đức Chúa thực thụ của vũ trụ lại không là Caesar rất đế chế, mà là Đức Kitô đã Phục Sinh. Lại nữa, thăng thiên hôm nay lại cũng giống như Phục Sinh quang vinh năm nào, nếu ta nhìn từ góc độ nay đảo ngược. Bởi, Đức Giêsu đã trỗi dậy rời khỏi cõi chết, để rồi Ngài “cứ lên cao, lên cao nữa” hầu đi vào chốn “thinh gian” nghịch chống động thái chôn vùi, trì trệ. Suy cho kỹ, “chốn thinh gian” nay mang ý nghĩa của “vũ trụ vạn vật” rất bao la.

Ở nơi vũ trụ vạn vật, nay có động lực dũng mãnh với uy quyền trên con người. Nay, có niềm khích lệ để vững mãi trong khổ hạnh và linh thiêng hầu vững chãi vượt thắng mọi uy lực của thần thiêng. Để hoàn thành việc này, cũng cần đến ngoan cường, nên Đức Giêsu thực hiện điều này bằng việc thăng thiên đi vào chốn vũ trụ có Cha có Chúa, để Ngài rồi sẽ ban phát khôn ngoan/bình an cho thánh Hội, ở thế trần. Và từ đó, Hội thánh sẽ là không gian bảo bọc mọi người con khỏi sức mạnh vẫn đè bẹp, nhờ vào chúc lành của Đức Chúa nay thăng thiên đi vào vũ trụ vạn vật. Thực chất của sự việc nói lên một việc, là: nơi chúng ta, ơn đặc sủng không cần môi giới. Bởi, Đức Giêsu đã trực chỉ thẳng đến chúng ta và vũ trụ, cách trực tiếp.

Suy như thế, ta lại sẽ rút ra được nhận thức vẫn có từ hai bức thư của thánh Phaolô Tông đồ gửi giáo đoàn Colôsê và Êphêsô. Từ thư này, các nhà chú giải lại đã thắc mắc không biết thánh Phaolô có là tác giả của thư này hay không? Chừng như, cả hai thư được gửi vào thời khắc sau khi thánh nhân khuất dạng. Nhưng ý tứ trong thư là điều thánh nhân vẫn xác quyết. Và, để tránh mọi tranh luận/bàn cãi, hãy coi đây là thư do chính thánh nhân hoặc đệ tử mình viết qua tư cách của một Phaolô trẻ sau thời kỳ thánh nhân nổi danh. Nhất nhất các điều kể trong thư đều về Đức Giêsu “lên cao/lên cao nữa” để về với Cha.

Đức Chúa thăng thiên, là ảnh hình của vũ trụ vạn vật trong đó ta thấy được nhiều thứ chứ không chỉ mỗi việc “lên cao/lên cao” xảy đến, rất rõ ràng. Có được ảnh hình vũ trụ vạn vật rất “lên cao”, ta lại sẽ nhìn thẳng vào đó và thấy có vũ trụ. Vũ trụ, không theo nghĩa thể lý, vật chất, nhưng là thực tại trọn vẹn. Trọn vẹn tính vũ trụ vạn vật mà mỗi thành phần trong đó đều mang ảnh hình khác lạ khiến ta kinh ngạc, đến thích thú. Đức Chúa “lên cao/lên cao nữa” đi vào với vũ trụ là ảnh hình chính vũ trụ ấy đã để cho ta thấy trọn vẹn ý nghĩa “lên cao” của chính nó. Hãy nhìn Ngài “lên cao lên cao” mãi rồi sẽ thấy Ngài trổi dậy và cứ thế “lên cao” đi vào phần sâu thẳm và sâu sắc của “mọi sự”.

Cứ thử nhìn ảnh hình nào đó, tự khắc sẽ thấy ảnh hình ấy đang nhìn trở lại chính người nhìn. Tựa hồ khi ta ngắm bức truyền thần nổi tiếng “Mona Lisa” của Leonardo da Vinci, cứ nhìn mãi như thế, rồi ra ta sẽ thấy ảnh hình ấy cũng thấy được nhiều điều/nhiều “sự” ở nơi ta. Hệt như thế, khi ta nhìn ngắm Chúa “lên cao/lên cao” đi vào vũ-trụ chốn sâu thẳm, ta biết được là Ngài đang nhìn vào chốn thẳm sâu ở nơi ta. Và, Ngài thấy cả bản thể của ta. Cả sự việc, ta từ đâu đến? Ta làm được gì, từ đó. Và khi ấy, ta biết là Ngài đang nhìn vào chính tương lai của ta nữa.

Sách Công vụ kể rằng: đồ đệ Chúa, cứ mải chiêm ngưỡng sự việc Thày “lên cao/lên cao nữa” để rồi Thày cũng nhìn vào tương lai/mai ngày của các ngài, là Hội thánh. Chúa “lên cao/lên cao nữa”, chính là sự “khởi đầu” mà tiếng Do thái khi xưa không chỉ nói rõ một “khởi sự” của mọi sự thôi. Nhưng khởi đầu mọi sự, là năng lực vẫn tiến hành và diễn biến vào mọi lúc. Nơi vũ trụ vạn vật có Chúa nhập vào hồn, luôn có sự khởi đầu và năng lực rất mới mẻ. 

Tư tưởng này, tiếng Hy Lạp dịch là “arche”, tức một “khởi sự” tương tự như khởi động một sự “lên cao/lên cao nữa” của Đức Chúa. Và, dân gian người người không thể có được sự ký thác rất mực vào với Chúa, nếu như người người lại cứ cột mình vào với bùn đất, chất nhiều dĩ vãng mà không khởi đầu “sự” gì mới mẻ, rất “khởi sự”. 

Nếu phải diễn dịch sự kiện “khởi đầu mọi sự”, thì tốt hơn, ta nên dịch và diễn ý nghĩa của sự việc Chúa “lên cao/lên cao nữa” khi ta đã, đang và sẽ có một “khởi sự” nơi Ngài rồi thì ta cũng đã, đang và sẽ có Chúa làm điều gì đó rất mới, nơi “vũ trụ vạn vật”. Tựa như Tin Mừng thứ tư trong đó thánh Gioan khởi sự bằng những chữ, như: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa…” (Ga 1: 1) Điều này có nghĩa: ở đâu có sự khởi đầu, ở đó luôn có ý nghĩa: Đức Chúa Đấng Khởi Đầu đã nên Lời.

Đàng khác, khi Chúa “lên cao/lên cao nữa” đi vào với vũ trụ vạn vật, Ngài chính là sự “tràn đầy” hiểu theo cụm từ “Pleroma” tiếng Hy Lạp. Tràn Đầy, là sự viên mãn hoàn tất, rất đích thật. Khi xưa, dân con nhà Đạo thường dùng cụm từ này để kể về Lời tiên tri, do các ngôn sứ nói. Tức, những gì xảy đến với con người đều mang ý nghĩa tràn đầy, trọn vẹn nơi lời lẽ hoặc sự thể diễn ra trong quá khứ, nhưng lại mở ra sự tràn đầy/viên mãn mà chẳng ai đoán trước được. Chính đó là sự “hoàn thành”. Là, ứng nghịệm cách trọn vẹn, đầy tràn điều ngôn sứ khi xưa thường vẫn nói. 

Tựa như Tin Mừng thánh Mát-thêu cũng trích dẫn 10 điều ứng nghiệm xảy đến đúng như lời tiên tri, khi trước. Ở đây nữa, Thiên Chúa vẫn trung thành với Lời Ngài từng hứa sẽ đổi mới tận thâm căn hết mọi sự, vì ta và cho ta. Vì ơn cứu độ Ngài dành để cho ta, cho hết mọi loài. Cuối cùng ra, đó là sự tràn đầy/viên mãn, tức: sự trọn vẹn của Thiên Chúa nay thành hiện thực.     

Chúa “lên cao/lên cao nữa”, là Ngài khởi sự cùng đến với nhau mà tiếng Hy Lạp gọi là “Katallassein” mà bản tiếng Anh và tiếng Việt vẫn gọi là “giao hoà”. Kinh thánh tiếng Hy Lạp diễn ta sự việc này, bằng cụm từ “Allos”, tức “cái gì khác”, “không giống thế”, rất đa dạng. Tiếng Hy Lạp lại dùng cụm từ “Kata” để chỉ “theo như”, “cùng một hàng với”. Khi ta đã thấy mọi sự trong trời đất/vũ trụ “cùng đến với nhau” trong lúc duy trì sự khác biệt/đa đạng ở đó, thì đó là lúc ta có được sự “hài hoà” như một thứ “cầu vồng”. 

Có thể là, ngày buổi đầu khi Đức Giêsu “lên cao/lên cao nữa” Ngài thẩm nhập đi vào với vũ trụ, chắc lúc ấy mọi người đều thấy “cầu vồng” tuyệt mỹ. Đó cũng là cảm nghiệm mà ông Nôê đã có khi cơn lụt đại hồng thủy đã qua đi. Đó, cũng là dấu chỉ về một giao ước, không chỉ mỗi giao và ước giữa Thiên Chúa và loài người thôi, mà còn là giao ước đã có giữa Thiên Chúa với và trong mỗi trụ cột nơi tạo dựng.    

Cũng nên hiểu việc Chúa “lên cao/lên cao nữa” theo ngôn từ mà bản kinh sách tiếng Hy Lạp dùng qua cụm từ “Sunestiken” để diễn tả ý tưởng mang ý nghĩa: nơi Ngài, mọi sự được hiện thực “chung cùng nhau”, nhưng mọi sự vẫn ở trong nhau, gìn giữ nhau. Điều này còn có nghĩa: mọi sự đạt tới điểm là: mọi sự cứ thế vẫn cộng thêm, mà không đi ngược về vị trí cũ và không còn vỡ đổ nữa. Đây là điều chắc chắn. Qua sự việc “Chúa lên cao/lên cao nữa”, ta hiểu rằng mình có đi đâu, đến nơi nào đi nữa đều có Chúa lo toan, giữ trong đầu. Chắc chắn ta sẽ đạt tới đó, không còn quay lại chốn cũ nữa.

Chúa” lên cao/lên cao nữa”, còn là sự bình an im ắng của vũ trụ vạn vật. Bình an của Chúa vượt quá mọi hiểu biết nắm vững, bởi Thiên Chúa của Bình an đang ở với ta, và trong ta. Đó là ý nghĩa của lời chào “Shalom” tiếng Do thái có nghĩa: bình an cho anh em. Bình an cho sức khoẻ, cho tính tích cực và ơn cứu độ của anh em. Bình an, là sự hiện diện gần gũi với Chúa, được Chúa thăng thiên đem đến cho ta. Rõ ràng, sự bình an này đã và vẫn có ở cộng đoàn tín hữu của Chúa, như hoa trái của Thần Khí. Ta sống trong tin tưởng và tận hiến cho Chúa qua nguyện cầu cảm tạ, và biết được sự bình an không ai hiểu nổi.

Chúa “lên cao/lên cao nữa”, Ngài là Vị Trưởng Tử, như cụm từ Hy Lạp“Prototokos” từng diễn tả. Đức Giêsu là Đấng Trỗi dậy “ngay từ đầu”. Ngài là Hoa trái đầu của những ai còn thiếp ngủ. Bởi thế nên, ta trổi dậy cùng với Ngài, và trong Ngài. Và, mọi hoa trái của sự kiện Sống Lại nay thuộc về ta. Đức Giêsu và chỉ mình Ngài là Con Một Thiên Chúa. Nhờ Ngài và qua Ngài, ta được thẩm nhập vào với Ngài. Vì Ngài là Trưởng Tử, tức Đấng Bậc Đầu của đàn con của Thiên Chúa, có chúng ta. Về việc này, thánh Phaolô gọi đó là tình huống “tái tháp nhập” vào với Đấng đích thực là thế, ở mọi thời.
Ngài là thế, trong ý nghĩa tràn đầy của sự chúc lành, không hạn chế. Bằng vào sự kiện Ngài “lên cao/lên cao nữa” đi vào với vũ trụ, Đức Giêsu đã chúc lành cho vạn vật. Làm thế, là Ngài lại đã chúc tụng Thiên Chúa, có vũ trụ vạn vật nghe được tiếng Ngài. Và, Ngài cùng với vũ trụ, tất cả cùng nhau cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa. Và, Chúa đã làm thế. Làm thế, để ta được lên cao cùng với Chúa hầu cất tiếng ngợi ca cùng với Đức Chúa “lên cao/lên cao nữa”, rất thăng thiên. Nhân hiền. Cùng ngợi ca sự kiện “khởi đầu” đi vào làm hoà với vũ trụ, rất vạn vật.

Trong tâm tình ấy, ta lại sẽ ngâm lên lời thơ vang nhiều ý nghĩa, hát rằng:

            “Hồn hỡi hồn, lên nữa, quá thinh gian,
            Tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực.
            Mộng là mộng tràn trề muôn vạn ức,
            Tình thơm tho như ngấn lệ còn nguyên.”
            (Hàn Mặc Tử - Ngoài Vũ Trụ)

Là như thế, Đức Chúa nay lên cao lên cao vút, quá thinh gian. Để người người, tràn trề muôn vạn ức, vẫn rất tình. Tình thơm tho, có Chúa cho tháp nhập với Tình Cha-Con có Thánh Thần Chúa ở giữa, rất đích thật, một sự thực. Sư thực ấy, đàn con Chúa nay đã hiểu và đã giữ trong lòng, mãi mãi. Rất muôn đời.       
                        
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh 
Mai Tá phỏng dịch

Saturday 5 May 2012

“Lạnh lùng chăng, gió tha hương?”


Suy niệm Chúa Nhật Thứ Sáu Phục Sinh Năm B 13.5.2012

Lạnh lùng chăng, gió tha hương?
“Em về bên ấy, ai thương em cùng?”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Ga 15: 9-17
Văn thơ ngoài đời, người người vẫn hỏi: “Em về  bên ấy, ai thương em cùng?” Thi ca Đạo, Chúa lại quả quyết: “Anh em là bạn của Thầy. Nếu anh em thực hiện điều Thầy dạy, Thầy sẽ không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm” (Ga 15: 16). Đó là ý chính trình thuật Chúa đã tỏ bày, hôm nay.

Trình thuật, nay thánh Gioan lại đã ghi về một khẳng định Chúa từng bày tỏ: tất cả mọi người là bạn hữu chứ không phải bày tôi của Chúa. Kinh bổn khi xưa lại vẫn nhồi sọ bầy trẻ rằng: loài người có mặt trên trái đất là để phục vụ Chúa. Trong khi đó, Tin Mừng lại quả quyết: chúng ta là bè bạn và là anh em với nhau chứ không là bầy tôi, của ai hết. Điểm khác biệt, giữa bè bạn và bầy tôi là ở điểm: bầy tôi chỉ biết tuân lệnh của chủ một cách máy móc, chứ không nắm rõ ý định thâm sâu nơi lệnh truyền. Bởi lẽ, bầy tôi là người tôi tớ sống ngoài cục diện, cũng như tâm tư mà người chủ vẫn đan kết. Còn bạn bè, lại hiểu rõ lý do khiến bạn mình hành xử, là như thế. Có hiểu rõ, nên mới cảm thông, yêu thương, mật thiết.

Trình thuật, nay được phụng vụ Hội thánh chọn để nhấn mạnh, thêm một lần nữa, lời Chúa tâm sự với đồ đệ trước lúc Ngài giã từ mọi người, để cất bước ra đi chấp nhận khổ đau/sầu buồn đến nỗi chết. Tâm sự, là tâm tình tự sự của Chúa vào phút cuối, trong đó Chúa đã đưa ra lệnh truyền mới yêu cầu mọi người “Hãy thương yêu nhau!” Lệnh truyền, là lệnh yêu thương không theo nghĩa chung/thường tình nhưng là mang ý lực đặc biệt, như Chúa từng nhấn mạnh: “Như Thầy vẫn yêu anh em”.(Ga 15: 12) Đó là điểm chính yếu rất mới. Mới, là lời lẽ thâm sâu cứu độ, khiến Chúa nhập cuộc với con người. Lời và lẽ, của Tình Thương Yêu Ngài tỏ lộ vào ngày cuối, ở thế trần.

Vào ngày cuối, Đức Gêsu biết rõ giới chức cầm quyền ở Giêrusalem muốn trừ khử Ngài khỏi hiện trường cuộc sống với xã hội, nên họ mới tìm bằng cớ bắt giữ Ngài. Ngài lui về vùng đất phía bên kia Gio-đan, tức rời xa tầm tay với và quyền kiểm soát của giới chức đầy quyền thế, là Philatô, Hêrôđê. Nếu chỉ muốn cam phận chọn sống âm thầm ở nơi đó, hẳn là Chúa cũng không bị giới chức ấy đe doạ tính mạng Ngài. Nhưng ngay lúc đó, Ngài được tin người bạn thân thiết của Ngài là Lazarô ốm nặng, chắc khó sống. 

Lazarô lâu nay vẫn sống ở thôn làng Bêtania, tức cửa ngõ dẫn vào thành thánh Giêrusalem. Còn Chúa, Ngài lại tạm trú ở Giuđêa, vùng đất nguy cho tánh mạng của các đấng như Ngài. Thành thử, Chúa đành chờ thêm hai ngày nữa để xem nếu như Ngài liều thăm Lazarô, thì sự việc có tồi tệ không? Mạng sống Ngài và của đồ đệ có an toàn không? Đức Giêsu biết rõ tình hình lúc ấy quả là nguy hiểm, nếu Ngài đến thăm Lazarô, có thể Ngài sẽ bị giới chức cầm quyền gài bẫy bắt Ngài rồi lên án chết. 

Tuy nhiên, Ngài không sờn lòng, vẫn ra đi thăm bạn hiền đang sắp chết. Ra đi, khi đã đắn đo, chọn lựa. Ra đi, quyết chấp nhận mọi rủi ro, vì tình bạn. Tình bạn phải như thế. Dù có thể, khi đến nơi, Lazarô bạn hiền không còn đó, đã ra đi về miền vĩnh cửu không kịp giã từ Ngài. Và, quyết định của Ngài đã được thánh Tôma, cũng là bạn của Chúa, nhanh chóng hỗ trợ và cùng đi. Hoặc, nếu cần, sẽ cùng chết với Ngài vì tình bạn.

Đó là lúc Ngài thổ lộ: “Không có tình mến thương nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu.”(Ga 15: 13) Và, đó là lúc Ngài thêm lời nhủ khuyên đồ đệ: “Hãy yêu mến nhau, như Thầy vẫn mến yêu anh em.” Tức bảo rằng: “Hãy yêu mến nhau, như Thầy đã mến thương (Lazarô) thế này đây!”     
     
Chấp nhận mọi hiểm nguy mang đến cho cuộc sống vì bè bạn, không là ý niệm trừu tượng. Cũng không là châm ngôn về đạo đức. Nhưng, Ngài đi Bêtania là để chữa lành/vực dậy thi hài của bạn hiền, Chúa muốn triển khai nhanh tiến trình chọn cái chết cho Ngài. Tin Mừng thánh Gioan còn ghi rõ: chỉ sau đó, công nghị Giêrusalem mới chính thức lên án Chúa. Án đây là án chết, do Ngài liên tiếp chối từ mọi nhượng bộ làm theo ý họ. Và, họ tìm dịp để thực hiện quyết định đã đưa ra. Xem thế thì, chuyến đi thăm Lazarô ngoài việc chứng tỏ tình bạn là cao cả, còn là cơ hội đã thúc bách động tác có quyết tâm trên Ngài.

Đức Giêsu không là loại người tìm đến cái chết để chứng tỏ điều gì, dù cao cả. Quyết định của Ngài không phải là hành động tự kết liễu cuộc đời. Ngài không là vị anh hùng “kamikaze” cuồng tín. Ngài cũng không tìm đến khoái lạc trong khổ dâm, hoặc chết chóc. Không, hoàn toàn không phải thế. Trái lại, nơi Ngài lại có sự cao cả cùng nét đẹp về bản chất rất chân chất. Bản chất ấy, là dám hy sinh tính mạng mình vì bè bạn. Là, cho đi con người mình vì lòng mến thương rất độ lượng.

Với Chúa, có nhiều thứ nơi cuộc sống hơn là chỉ đơn giản sống sót với đời mình. Tình bạn chẳng khi nào là rẻ mạt hết.

Chúa cũng nói: “Thày đã không gọi anh em là tôi tớ, mà là bạn.” (Ga 15: 15). Bảo rằng: anh em là bạn hữu của Thày, thì anh em có chịu làm điều này với Thày mình không? Nếu anh em là bạn hữu của nhau, thì anh em cũng sẽ làm cho nhau như thế chứ? Bởi lẽ, lòng mến thương  -nhất là lòng thương và mến vì bạn hữu-  có thể sẽ làm cho anh em dễ bị tổn thương. Tình bạn còn khiến anh em biết lo lắng cho nhau đến độ dám liều mạng sống của mình vì người ấy. Tình bằng hữu có lòng mến cao cả và niềm vui, lẫn niềm đau nỗi khổ nữa. Hai việc này vẫn đi đôi với nhau. Anh em không thể muốn điều này mà lại không chấp nhận điều kia.

Lòng mến thương tự như lửa ngọn. Lửa này vừa nung ấm tình người, vừa thắp sáng rọi chiếu khắp nơi. Đổi thay hết mọi sự rồi sẽ đưa vào sự sáng. Ở nơi đó, có một thứ lý lẽ rất hợp lẽ đạo nhưng không dựa trên lý trí, không tính toán. Như Chúa nói: Kẻ thù của Ngài chẳng có quyền hành gì trên Ngài hết. Ngài phú ban sự sống của Ngài chỉ vì Ngài muốn thế. Không ai có thể lấy đi khỏi nơi Ngài, tức ra khỏi lòng muốn của Ngài. Làm thế, Ngài đã chứng tỏ cho ta thấy Thiên Chúa là Đấng nào. Là Thiên Chúa, Ngài cũng làm như thế, thôi.

Thiên Chúa đối xử với ta như người “Bạn”, rất hiền. Tình Ngài thương mến ta không do định luật nào, vẫn đề ra. Tình Ngài thương ta, không do bộ óc con người suy diễn để định ước, hoặc ràng buộc. Tình Ngài đem đến cho ta nhiều nghị lực. Và, khi Thiên Chúa can thiệp mọi chuyện vì ta, điều đó không có nghĩa là Ngài đến từ bên ngoài vũ trụ, rồi Ngài thổi vào lớp vỏ bọc ngoài của trời trăng, cùng sông nước. Nhưng, Ngài đến để chứng tỏ rằng: Ngài muốn thiết lập tình bè bạn rất đích thực. Và, để lưu lại mãi mãi nơi ta. Thiên Chúa tự cho đi chính Mình Ngài. Và, Đức Giêsu cũng mặc lấy nơi Ngài tình thương yêu ấy. Và, Chúa gọi đó là Tình Bạn. Ngài thực thi Tình này cũng một kiểu như người nghệ sĩ, để ta thấy được, nghe được và cảm nhận được.

Điều này, không diễn tiến theo kiểu tôn giáo nào đó đã lý luận, bảo rằng: Thiên Chúa Cha vẫn muốn Con Một Ngài phải chết đi hầu làm lắng dịu nỗi uất ức/giận hờn, nơi con người. Thiên Chúa là Cha, Ngài chẳng bao giờ thiết tha đến những chuyện như thế. Và, Đức Giêsu cũng chẳng ủng hộ những chuyện như thế. Ngài vẫn muốn sống. Vẫn muốn sự sống của Ngài, và còn hơn nữa, sự sống của bè bạn nữa.

Đó là ý nghĩa câu Ngài nói: “Chính do tình mến thương anh em dành cho nhau như bè bạn, mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thày.”

Và, chúng ta được dạy: Hãy thương mến nhau bằng tất cả sự hăng say, thương mến. Tất cả mọi người chúng ta có quyền lựa cho đi chính mình cho bè bạn như Đức Giêsu từng làm. Như Thiên Chúa là Cha từng làm và sẽ còn làm mãi mãi, không nguôi. Và, nếu mọi người chúng ta muốn trở thành người của Chúa rất đích thực, đó không là chọn lựa. Nhưng là lệnh truyền gửi đến với nhau, và cho nhau.

Hiểu thế rồi, tưởng cũng nên ngâm thêm lời thơ còn đó, đang chờ ta ngâm tiếp:

            “Trời hồng chắc má em xinh,
            Nước trong, chắc miệng em cười thêm xinh.”
            (Đinh Hùng – Bài Hát Mùa Thu)

Mùa thu hát mãi trời hồng. Có má em xinh. Có miệng em cười. Cười xinh trong trời hồng, con dân của Chúa vẫn coi nhau như bạn hiền. Vẫn gọi nhau là anh em, suốt đời. Vẫn cứ mong, mọi người sẽ gọi nhau như thế mãi. Bởi, chính Chúa đã khẳng định và gọi mời mọi người làm như thế. Hết mọi thời.
                 
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh 
Mai Tá phỏng dịch