Saturday 26 June 2010

“Hoa chanh, nở giữa vườn chanh.”


“Thày u mình với chúng mình dân quê.

Hôm qua em đi tỉnh về,

Hương đồng gió nội, bay đi ít nhiều.”

(thơ nguyễn Bính)

Lc 10: 1-12, 17-20

Hương đồng gió nội, có hoa chanh. Đâu chỉ dân mình, kịp thưởng thức. Quê mình. Tỉnh người. Vẫn cứ ngập tràn lúa chín, cần canh tác. Canh tác, như lời Thầy cảnh giác, bấy lâu nay.

Trình thuật thánh Luca, nay bàn nhiều về nhu cầu canh tác lúa đồng ngập tràn người của Chúa. Lời Ngài dạy: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít.” nói lên tình cảnh rất thật của Hội thánh thời tiên khởi. Cộng đoàn dân Chúa lúc ấy sống từng cụm, và từng cụm. Lẫn lộn trong đám dân ngoại, thờ đủ thần. Dị đoan. Phù phiếm. Ở đó, hạt cải nhỏ Hội thánh là, men trong bột, cần triển khai.

Hạt cải Hội thánh được Chúa gieo vãi, nay đạt kết quả, khả quan. Nay, có đến hàng tỷ người tin Chúa, đạt 1/5 mức dân địa cầu. Nhưng, vấn đề là: còn 80% số người trên thế giới, vẫn chưa nhận ra Đường lối Chúa dạy. Những, 80% trong số 7 tỷ người chưa tin rằng Chúa hiện diện, ở bên mình.

Trong số những người tự gọi là Kitô-hữu, được mấy ai hoạt động tích cực nơi đồng lúa chín ngập những người? Về thợ gặt, lâu nay người người chỉ nhớ đến vai trò của Giám mục. Linh mục và tu sĩ, thôi. Nhất nhất đều là nhận định, thời buổi trước. Buổi ban đầu, thợ gặt vẫn là những người quyết định dấn bước theo Chúa. Tức, những người vui lòng chấp nhận làm công tác mục vụ, rất mê say. Thật ra, không chỉ mỗi giám mục/linh mục/tu sĩ, mới làm việc ấy. Nhưng, là tất cả mọi người, tín hữu cũng như thường dân ở huyện, đều làm được. Thánh Phaolô kia, chỉ là giáo dân rất bình thường. Là, dân lao động chân tay giới khâu may lều bạt, hầu sinh sống. Và, biết bao người như thánh nhân, từng năng nổ, nhiệt tình giảng rao Lời Chúa. Rất hết mình.

Thời nay, cũng thế. Nghe biết Tin Mừng Lời Chúa, người người đều đã nghe. Đã được mời, dấn thân với công tác mục vụ, trong cánh đồng Lời Chúa, hết. Nhưng, nào mấy ai dám bỏ giờ ra mà thực hiện. Thực hiện Lời, hầu rao báo Tin An Bình cho kẻ chưa tin. Chưa biết. Ngày nay số người san sẻ niềm tin giống như ta, đà sa sút. Hẳn là dấu hiệu sai sót trong sống đời đi Đạo, của Hội thánh?

Lại nữa, trải qua 2000 năm hăng say rao giảng, Hội thánh chắc cũng nghĩ đây không là chuyện đáng để mọi người âu lo. Quan ngại? Vả lại, Thánh Thần Chúa vẫn có cách mời gọi mọi người làm việc cho Hội thánh, theo kiểu khác. Thích hợp hơn. Đó là ý của thánh Phaolô, ở bài đọc 2.

Bằng vào lá thư gửi giáo đoàn Galát, thánh Phaolô từng nhắc nhở: chẳng cần biết anh em có là người cắt bì hay không, đã rửa tội hay chưa, điều ấy không quan trọng. Quan trọng là: “Anh em đã trở nên thụ tạo mới.” Tức, đã thay đổi chính mình, theo ảnh hình của Chúa, điều đó mới thật quan trọng. Bởi, nếu không, thì việc rửa tội hoặc kinh nghiệm giữ Đạo và sống Đạo, chỉ là chuyện phụ.

Đạo của Chúa, tự bản chất, không là cùng đích. Nhưng, là đường lối thiết thực để tất cả chúng ta trở thành con người đổi mới như Đức Chúa, từng khuyên bảo. Con người mới, đích thị bao hàm tính siêu việt nội tại của chính Ngài, Đấng luôn mời gọi ta trở nên người mới, rất như thế. Người mới, là người có cuộc sống toàn diện, rất chân thực. Biết quan tâm - thương xót, hết mọi người. Người mới, là người biết sống tự do. An bình. Hiền hoà.

Vì thế nên, Chúa còn dạy: “Anh em đừng mang theo tiền. Bao bị. Giày dép.”(Lc 10: 4) An bình – hiền hoà, trong cuộc sống, không nằm ở những gì mình sở hữu. Cũng chẳng là: tiền tài, danh vọng, hoặc các bất động sản đầu tư, hay tín dụng. Cũng chẳng là, vị thế cao sang. Đầu làng hay tiên chỉ. Uy danh quyền lực, thực vênh váo. Trái lại, an bình hiền hoà, nằm trong cuộc sống. Đầy năng động. An bình – hiền hoà nằm ở nơi an toàn, không ai lấy đi mất.

Bài đọc hôm nay, xoay quanh ngôn từ mà tiên tri Isaya từng nói đến. Là, “ơn thái bình tựa giòng sông cả”(Is 66: 12). Hoặc, như thánh Phaolô vẫn thường bảo: “Sự bình an và lòng thương xót, là nhờ rập theo quy tắc sống có Chúa” (Gl 6: 16). Ở Tin Mừng, Chúa còn khuyên dân con đồ đệ đem “bình an đến với từng nhà”, nữa. (Lc 10: 5)

Bình an Ngài hứa, không đặt ở bờ môi. Ngoại hình. Nhưng là, tâm tình tự tại ở trong ta, dù ta gặp phong ba/bão tố, rất rúng động. Bình an, là tâm tình Chúa đã đạt lúc Ngài vượt thắng mối âu sầu, ở Vườn Dầu. Và thánh Phaolô còn thêm: “Bình an ta chỉ có, khi biết sẻ san thập giá Đức Kitô, thôi.”(Gl 6: 14)

Xem như thế, công tác gặt hái lúa đồng Chúa kêu mời, là: đem bình an đến với muôn người. Để được thế, cần có sự yên ổn, ở hồn mình. Và, đồ đệ Chúa hôm nay chỉ có thể sẻ san nỗi niềm bình an ấy, khi gần Chúa mà thôi. Bình an Ngài phú ban, xã hội hôm nay chẳng thể nào tạo được, nếu người người chỉ muốn gây căng thẳng. Hãi sợ. Bất công.

Hôm nay nữa, dân con đồ đệ được gọi hãy cùng Chúa ra đi mà hái gặt lúa đồng xã hội, mình đang sống. Lúa đồng xã hội, mặt ngoài như đã và đang chín rặt. Giàu sang. Sung túc. Nhưng, kỳ thực vẫn thiếu hụt sự an bình hiền hoà, tìm không ra. Bởi thế nên, Chúa mời gọi mọi người hãy trở thành tá điền mà lao động. Lao động cật lực, để lúa đồng xã hội từ từ trở thành kho lẫm chất chứa giá trị đích thực, của Phúc Âm. Giá trị, ít người biết đến. Nhưng, vẫn còn đó. Ngóng chờ.

Xưa, Chúa sai 72 môn đệ “đi khắp các làng mạc cùng thành luỹ, mà ghé viếng” (Lc 10: 1) Nay, Chúa vẫn chờ dân con thợ gặt, lại sẽ ra đi nhân Danh Ngài, mà giảng rao. Là thành phần Thân Mình Chúa, đồ đệ Ngài nào đã quên? Chúa đi đâu, Thân Mình Hội thánh của Ngài cũng sẽ đi. Không lanh chanh đi trước, cũng chẳng lẽo đẽo theo sau Ngài. Nhưng đi cùng. Cùng đi. Cùng sánh vai nhịp bước với Ngài. Quyết không lui.

Thành phần Thân Mình Chúa nếu không đi, thì sao Chúa cất bước! Thành phần Mình Chúa, là dấu chỉ cho mọi người thấy chính Ngài đang hiện diện. Những gì đồ đệ Ngài rao báo, là chính Ngài đang nói. Hệt như Lời Ngài từng dạy: “Ai nghe các ngươi là nghe Ta” (Lc 10: 16). Cuối cùng là, nếu không có ai loan báo cho mọi người biết thông điệp lúa đồng chín ngập của Ngài, thì ai mà biết đến?

Là dân con đồ đệ, hẳn người người sẽ mừng vui hết mực. Vui mừng, đầy cảm kích. Cảm kích, vì đều biết: mình có thể làm nhiều điều, như Chúa làm. Cảm kích, khi đem an bình - hiền hoà đến với tất cả. Là Công giáo, có bao giờ lòng hỏi lòng, là: mình đã quyết tâm, giống Chúa? Nếu chưa, ắt hẳn rằng nghi thức tẩy rửa cho dân con đồ đệ, cũng chỉ giống như nghi thức “cắt bì” vô nghĩa, với người thời đại. Hôm nay.

Đồ đệ Chúa, khi đã quyết tâm theo chân Chúa, mà gặt lúa, vấn đề kế tiếp đặt ra, là: ta sẽ bắt đầu từ nơi đâu? Làm sao, biến đổi được toàn xã hội? Câu trả lời hay và đúng nhất, là: bắt chước Mẹ Têrêxa Calcutta hãy ra tay mà giúp đỡ những người nghèo, ngay cạnh bên. Bởi, họ là những người đang cần ta giúp đỡ, rất khẩn thiết. Giống như Mẹ Têrêxa, ta sẽ từ từ, giúp từng người. Không vội vã.

Thế nên, ra đi về lúa đồng chín rộ mà gặt hái, là: tạo hạnh phúc cho muôn dân. Việc này quan trọng không thua gì mang lại hạnh phúc cho riêng mình. Đó, chính là cảm nghiệm bình an ta sẽ có. Đó, cũng là ý nghĩa của động tác đem hoà bình đến với muôn người. Và, khi tất cả mọi người cùng làm việc ấy, thì xã hội ta rồi ra sẽ biến đổi. Cũng chóng thôi. Đó, chính là điều Chúa luôn mời gọi mỗi người. Ở đây. Bây giờ.

Trong khí thế ứng đáp lời Chúa kêu mời, ta hân hoan tiến bước trong tiếng hát. Sẽ hát rằng:

“Ta hãy đi cùng nhau

Đến những làng quê nghèo.

Hỏi thăm mùa lúa mới,

Nghe giọng hò thật cao.

Ta hãy vô rừng sâu,

Với bác tiều phu già,

Mừng vui từng giọt lệ,

Ngày vui nhọc nhằn qua.”

(Trịnh Công Sơn – Hãy Đi Cùng Nhau)

Cùng nhau đi, về đồng lúa chín. Ở đó, có người em đang đợi chờ. Ở đó, có bàn tay anh giăng nhanh. Bàn tay đem bình an Chúa hứa với muôn người. Ngài hứa sẽ ban niềm vui hiền hoà. Rất nội tại. Tuyệt vời.

Lm Phan Đỗ Thục Linh

Mai Tá diễn dịch

(xem thêm các bài khác, xin mời vào

www.suyniemloingai.blogspot.com;

hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;

hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com)

Saturday 19 June 2010

“Anh phải về thôi, xa em thôi”


Hoàng hôn yên lặng cũng theo về

Giọt nắng cuối ngày rơi xuống tóc

Mà lời từ biệt chẳng lên môi.

(thơ Hoài Vũ)


Lc 9: 51-62

Anh về thôi. Xa em. Chẳng vì hoàng hôn yên lặng, giọt nắng cuối. Anh phải về, chắc bởi vì lời từ biệt chẳng lên tới bờ môi. Xa xôi. Một tâm tình. Tình ngoài đời, chỉ như thế. Rất chia phôi. Tình nhà Đạo, nay vẫn khác. Không phôi pha. Không, choáng rợp hoàng hôn yên lặng. Nắng rơi trên tóc. Nhưng, vẫn vui. Vui vì đợi chờ. Chờ anh chờ chị, chuyển lời Chúa bảo ban. Rất khích lệ.

Trình thuật Chúa bảo hãy theo Ngài mà đi muôn hướng. Hãy cứ đi. Đi đi, mà chẳng cần từ biệt. Trăn trối. Với một ai. Đi, như lịch sử thánh còn ghi rõ:“Tới ngày Đức Giêsu siêu thăng, Ngài quyết đi Giêrusalem, sai phái môn đệ đi trước.” (Lc 9: 51). Đi Giêrusalem, là để Ngài thể hiện cứu cánh cuộc đời, ơn cứu rỗi. Bởi, cũng tại Giêrusalem nơi đây, đồ đệ Chúa tụ họp thành cộng đoàn quyết thực hiện tiếp công trình, Ngài khởi xướng. Cũng từ đây, ý định cứu rỗi được Ngài bộc lộ, cho muôn người.

Đi Giêrusalem, vì đó là chốn thiêng Chúa hoàn tất kế hoạch Cha giao phó. Thoạt khi đến, Ngài đã thiết lập mẫu gương, và thử thách. Để dân con đồ đệ, cùng gia nhập. Cùng công trình. Hầu sẵn sàng chấp nhận bài sai Chúa vẫn gửi.

Chúa kêu mời dân con mọi người đi Giêrusalem mà theo Ngài. Người mở tai nghe lời mời, thật cũng nhiều. Nhưng, người đáp ứng lời gọi chẳng bao nhiêu. Chỉ có 3 nhóm. Nhóm người đầu, rất sốt sắng. Quả cảm. Quyết bảo rằng: Ngài đi đâu con theo đấy. Rất hăng say. Phấn khởi, nhưng chỉ lúc đầu thôi. Chợt đến khi giáp mặt thực tại, lại ngại ngần. Đắn đo. Lo lắng. Chí ít, là lúc Ngài biểu tỏ: “Chồn có hang, chim có tổ nhưng Con Người không có chỗ gối đầu.” (Lc 9: 58)

Không chốn gối đầu, tức: Ngài chẳng có gì, từ tiền tài. Danh vọng. Đến, cơ ngơi. Bất động sản. Nhất nhất, vẫn là không. Nhóm thứ hai, cũng muốn theo Chúa. Nhưng, lại lần lữa: hãy để tôi về chôn cất cha tôi đã.” Bởi thế nên, mới được Chúa dặn dò: “Hãy để kết chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, hãy đi rao báo Vương Quốc Nước Trời.” (Lc 9: 60). Nhóm này những muốn vuông tròn bổn phận người làm con, trước khi nghĩ đến người khác.

Thật ra khi Chúa khuyên bảo hãy bỏ mọi sự mà theo Ngài, Ngài đâu bắt ta chối bỏ tình thương và bổn phận của ta với gia đình. Điều Ngài muốn, là: hãy biết sắp xếp thứ tự ưu tiên, cho phải lẽ. Đòi hỏi dựng xây Nước Trời, tức thế giới của Sự thật. Của, lòng xót thương. Công lý. Tự do và an bình. Vẫn là ưu tiên cần đặt trước nhất. Đành rằng, đây là đòi không dễ bề hiện thực. Trong khi đó, người nghe dạy vẫn cứ vòng vo. Nên, khó đến đích.

Nhóm thứ ba, cũng muốn theo chân Chúa, đi Giêrusalem. Đi khắp bốn phương trời, để phục vụ. Nhưng, những người như anh thanh niên trong truyện kể, chỉ muốn sắp xếp cho dứt đoạn mọi công tác tư riêng, của chính mình. Nói nôm na, tức là: vẫn cứ vui chơi trước đã. Rồi tính sau. Thành thử, muốn trở thành đồ đệ đích thật của Chúa, thật chẳng nên chần chừ. Do dự. Bởi lời mời gọi, là gọi và mời ở đây. Hôm nay. Câu đáp trả, phải là bây giờ. Chỗ này. ngay tức khắc. Nhắc chuyện “cầm cày”, Chúa ám chỉ điều Cứu Ước nói đến, ở bài đọc 1.

Bài đọc 1 diễn tả cũng một cảnh “Êlia ra đi gặp Êlisha con ông Saphát đang cày ruộng.” Và thực tế, Êlisha những muốn từ biệt cha mẹ mình, nhưng đã kịp nghĩ ra, là: thày muốn mình đi ngay. Và, Êlisha sử dụng hết phương tiện sinh sống của mình, gồm cặp bò giết đi mà lễ tế. Lấy cày làm củi, hai tay không theo thày. Phục vụ thày.

Truyện kể ở Cựu Ước, không có ý khuyên mọi người xử sự từng chữ theo kiểu của Êlisha. Nhưng, muốn để ta suy tư về những gì khiến ta ngại ngần mà theo Chúa. Rào cản ấy, có thể là phương tiện vật chất. Cảm xúc. Hoặc, tài sản trí tuệ. Tức, những gắn bó ta vào với ham muốn vật chất. Thế trần. Cũng có thể là: những âu lo. Sợ hãi. Sợ, quá khứ. Hãi, tương lai. Nhất nhất mọi sự đều có thể gây ảnh hưởng lên quyết định ra đi, của mỗi người. Thực tế, ta mới chỉ sống có nửa đời. Hoặc, mới chỉ sống cuộc đời của người khác. Chứ không phải của riêng mình. Đó là điều thánh Phaolô muốn nói đến.

Bài đọc 2, thánh Phaolô nhấn mạnh đến tự do con cái Chúa, rất như sau: “Chính để chúng ta được tự do, mà Đức Kitô đã giải thoát.” (Gl 5: 1) Thánh nhân muốn nhấn mạnh điều này, là bởi cộng đoàn Galát vẫn còn nhiều người vừa hồi hướng trở về, đã bị thúc bách quay lại với lề thói cũ xưa của người Do thái. Điều trớ trêu, là: giống nhiều người, họ cũng lo sợ cho tương lai khi được giải thoát khỏi cảnh nô lệ. Đoạ đày.

Ngày nay cũng thế. Làm sao có được tự do, khi mình vẫn tự đoạ đày bằng những thói tục xưa xấu, như: thách thức giới có thẩm quyền với mình. Cứ ngang nhiên mà hút sách. Cứ phà khói thuốc lên mũi mắt của người khác. Hoặc, mở lớn âm thanh thùm thụp, điếc tai hàng xóm. Lái xe, thì hung hãn rú tay ga. Chẳng kiêng nể nhường nhịn người cùng đường, chung lối. Chỉ là người tự do, khi biết quan tâm đến người khác. Khi nhu cầu của người là thành chuyện thiết yếu đối với mình. Khi nhìn người đích thực là những người anh/người chị, cần ta giúp.

Thánh Phaolô còn cảnh báo: “Anh chị em đã được gọi để sống tự do. Nhưng, đừng lấy nê tự do để sống theo xác thịt. Trái lại, hãy lấy lòng mến mà phục vụ nhau.” (Gl 5: 13) Sống tự do, không có nghĩa: lẩn tránh thực tại cuộc đời, đầy ngang trái. Nhưng, can đảm mà giáp mặt nó. Sự sống có tự do, là chấp nhận mọi trọng trách để phục vụ ai đó. Chứ không phải để đổ vấy mọi trách nhiệm về những sai quấy. Vỡ đổ, lên người khác. Tức, dùng người khác làm vật tế thần.

Sống tự do, còn có nghĩa: nhất quyết không đeo bám, ỷ lại vào tiền tài, vật chất. Hoặc, của cải. Danh chức. Địa vị. Cả đến những thành tựu chói sáng, chỉ mang tính hợm hĩnh. Hời hợt. Chóng qua. Sống tự do con cái Chúa, đích thực là những người chỉ muốn thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Một thế giới biết bảo vệ sự thật. Biết quan tâm, san sẻ những gì mình có với người khác. Một thế giới an ninh và hoà bình. Người có tự do, không chủ trương tước đoạt những thứ hay đẹp, khỏi kẻ khác. Nhưng, san sẻ chính mình. San và sẻ, trong tinh thần cho đi chứ không nhận vào.

Tự do như thế, ngoài Đức Kitô ra, ta vẫn thấy có nơi các vị như Êlisha. Phaolô. Hoặc, Giàm mục Oscar Romero. Mẹ Têrêxa thành Calcutta. Maximilian Kolbe. Dietrich Bonhoeffer và nhiều người khác. Tất cả, đều đã biết nói tiếng “Vâng” với Chúa. Với cuộc sống, dù thâm trầm. Khổ đau. Tự do, là biết theo Ngài đi Giêrusalem, không điều kiện vẫn đặt trước. Là, quyết đặt tay lên chiếc cày xới đất, không ngoái lui. Có thế, mới xứng đáng là dân con Đức Chúa. Mới gọi mình, là “Công giáo”. Chính tông. Đạo ròng.

Trong hiên ngang tự hào, làm con Chúa, rất tự do, ta cứ hát lên lời ca đầy phấn chấn, rằng:

“Kìa cô nhi không chút tình thân,

Đây lớp tàn nhân

Năm tháng đau thương thầm trôi

Cùng cương quyết góp sức đồng tâm,

Muôn dân vui, một đời vàng sáng tươi.”

(Hùng Lân – Cô Gái Việt)

Không cần biết cô nhi kia/cô gái ấy, có là người Việt. Cũng chẳng cần hiểu người Việt này/ anh Tây kia, có là người Công giáo, đúng hay không. Là con dân Đức Chúa, ta vẫn có bổn phận phải chăm lo. Quan tâm mà giùm giúp. Gìum và giúp, để rồi mọi người sẽ khônh ổ thẹn, khi nghe tiếng Chúa mời gọi, đi Giêrusalem. Để, mở mang. Rao giảng. Rất Nước Trời.

Lm Phan Đỗ Thục Linh

Mai Tá diễn dịch.

(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com

hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;

hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com

Saturday 12 June 2010

“Tình tôi như đoá hoa hồng"


Ở mương oan trái, trong lòng tịch liêu.

Kinh đô cát bụi bay nhiều,

Tìm đâu thấy một người yêu hoa hồng.”

(thơ Nguyễn Bính)

Lc 9: 18-24

Tình của tôi. Và, của mọi người. Đều như đoá hoa hồng. Tịch liêu. Oan trái. Nhiều cát bụi. Tình Chúa cao cả. Lâu rày, thấy muôn nơi. Với muôn người. Như trình thuật, đà diễn tả.

Trình thuật, nay diễn tả tình tự thân thương. Nhiều cung cách. Thân thương, qua nguyện cầu. Một mình. Nguyện cầu, lúc trước khi các biến cố quan trọng, kịp xảy đến. Với Chúa. Ở trần gian, khi thấy Chúa nguyện cầu, chắc có người sẽ thắc mắc tự hỏi: Đức Giêsu đường đường là Con Chúa, sao Ngài lại phải cầu? Ngài cầu, là cầu với ai? Cầu những gì? Hỏi như thế, tức chưa thông hiểu cầu nguyện. Cầu và nguyện, trước nhất là hiệp thông với Cha. Hiệp thông, trong nghe/nhìn và nói năng. Có khi, cũng chẳng bằng lời. Chỉ lặng thinh. Lặng lẽ/làm thinh với môi trường mình đang sống. Có Chúa.

Rõ ràng, Chúa vẫn nguyện cầu cùng Cha. Ngài trân trọng thực hiện ý Cha. Rất trọn vẹn. Thế nên, khi dọn cỗ cho 5000 người ăn xong, quần chúng đã muốn tôn Ngài làm Vua, và Ngài đã lẳng lặng tìm nơi vắng vẻ, mà nguyện cầu. Nguyện cầu lúc đó là cùng với Cha vượt thắng năng lực cám dỗ, từ quần chúng. Ngài dư biết, chuyện ấy không là đường lối Ngài men theo. Trong nguyện cầu, Ngài tiến dâng Cha một thỉnh nguyện. Những thỉnh và nguyện, của người phàm. Là, mong cho sao chúng dân/đồ đệ thực hiện điều Cha muốn.

Và, Chúa hỏi: “Dân chúng nói Thầy là ai?” Đồ đệ thưa: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả.” Đến khi ấy, Phêrô thánh nhân đứng ra đại diện cho đồng môn tuyên ngôn cùng Thầy: “Thầy là Đấng Mêsia Chúa gửi đến.” (Lc 9: 20) Rõ ràng, bằng vào câu trả lời thật vững chắc, thánh Phêrô nói lên tương quan thật gần giữa đồ đệ Chúa, với Thầy. Không giống như tình huống trong đó quần chúng hoặc Hêrôđê xử tội Chúa, đồ đệ nay nhận ra Thầy là ai. Các thánh, nay đã biết Thầy là Đấng Chí Tôn Chí Thánh, Cha gửi đến. Cứu độ. Mọi người chờ.

Ngay lúc ấy, Chúa căn dặn đồ đệ, đừng quảng bá phát giác đó. Bởi, có nói ra thì chúng dân mọi người cũng chẳng tài nào hiểu được ý nghĩa của sứ vụ, Chúa cưu mang. Cũng chẳng thể nào, mưòng tuợng ra được một Đấng Mêsia mà mọi người chờ, lại không làm những điều mà mọi người kỳ vọng. Là, đánh bại quân thù, của Do Thái. Đem họ về với vinh quang, thời xưa cũ. Chứ họ đâu có nghĩ, Chúa lại bị lên án, rất thất sủng. Còn bị hành hình như tội phạm, rất tầm thường.

Chính vì thế, người nghe mới thấy hỡi ôi, khi Chúa nói: “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Bị, các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ. Bị giết đi, ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.” (Lc 9: 22) Kể từ đó, đồ đệ Chúa mới bắt đầu học biết về Mêsia Cứu Thế, các ngài theo. Xem như thế, Đức Giêsu không còn là anh hung cái thế của thời đại. Cũng chẳng là, nhà quán quân đem hỵ vọng đến cho dân, hầu khởi nghĩa chống ngoại bang, đang áp chế. Ngài cũng đâu là lãnh tụ giải phóng, của chiến tranh. Thời đó.

Ngược lại, Mêsia đây là Đấng bị chính các lãnh đạo của dân mình phế bỏ. Cũng sẽ bị xử tử và hành hình, do thế lực ngoại bang, chuyên chèn ép. Chính vì thế, nên có lẽ đã có một thứ “im lặng dễ sợ” xảy ra ngay sau khi Chúa hỏi. Cả cho đến lúc, Phêrô thánh nhân tỏ bày sự bực tức, mà thánh Luca không ghi chép.

Với Đức Giêsu, vinh quang/toàn thắng sẽ đến, nhờ tình yêu. Bằng vào, trung thành với sự thật. Trung kiên. Vẹn toàn. Không bạo loạn. Như bài đọc 1 quả quyết: “Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đavit và dân cư Giêrusalem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết nguyện cầu.” (Dcr 12: 10) Nguyện cầu, để rồi chính họ và các thế hệ về sau “sẽ ngườc nhìn Ta mà than khóc Đấng chúng đã đâm thâu”. (Dcr 12: 10)

Nhận biết Chúa là Đấng Mêsia. Và, thấy Chúa đau khổ mà tội nghiệp, thôi chưa đủ. Ta còn được mời gọi làm đồ đệ, theo chân Chúa. Hôm nay, Chúa còn kêu gọi mỗi đồ đệ như ta, cần thực hiện: từ bỏ chính mình. Cần lĩnh nhận, thập tự mỗi ngày. Để theo Chúa.

Từ bỏ mình, là điều chẳng ai muốn. Và, khó hiện thực. Trái lại, ai cũng được khuyến khích thăng tiến chính mình. Chấp nhận con người mình. Thế nhưng, thăng tiến cá nhân cũng trăm ngàn cách. Cách tốt, cũng như xấu. Nếu theo cách tự do. Thương yêu. Thật sự. Ta chỉ thực hiện được, tuỳ người khác. Tuỳ môi trường. Nhất là, tuỳ việc tự đánh bại, chính mình. Đánh bại tính vị kỷ. Tính tự cao. Tự đại. Hoặc, tự đánh bóng cá nhân. Và, chấp nhận thân phận bọt bèo. Của mình.

Cách tốt nhất, là mở lòng mình ra mà đón nhận giá trị trong sáng Tin Mừng gửi đến, với ta. Cho ta. Chấp nhận thập giá, không có nghĩa, là: ta cứ đi ra ngoài mà tìm khổ đau. Cùng quẫn. Rối mù. Bởi làm thế, sẽ vạ lây. Rối trí. Hỗn độn. Cách tốt khác, là chấp nhận những gì gửi đến với mình, trong cuộc sống. Rồi, cứ thế mà hành xử theo cung cách tích cực. Dựng xây. Ngõ hầu, thấy được tình yêu và ân sủng Chúa ban, ngang qua kinh nghiệm từng trải. Dù, có phải trải qua nhiều tháng ngày sầu buồn. Khổ đau.

Bất cứ ai biết sống năng động và thực tế, như Chúa dạy, chắc chắn sẽ vui lòng chấp nhận đường lối sống: biết từ bỏ. Kể cả chuyện bị khinh khi. Miệt thị. Như thánh Phaolô từng quả quyết: “Tất cả anh chị em chỉ là một trong Đức Kitô.”(Gl 3: 28). Là một, là chấp nhận cùng nhau làm việc, cho những gì là Chân. Thiện. Mỹ. Để yêu Chúa.

Có như thế, ta mới trở nên như thánh Phaolô gọi, là: “mặc lấy Đức Kitô”. “Trong Đức Kitô”. (Gl 3: 27) Điều này, làm ta nhớ chiếc áo trinh trong ta mặc, ngày thanh tẩy. Bởi, nhờ thanh tẩy, ta đi vào với gia đình mới. Gia đình này, gồm các người anh/người chị là con Chúa. Nơi gia đình này, không có tranh chấp. Kỳ thị. Như thánh Phaolô có nói thêm: “Không còn phân biệt Do thái hay Hy Lạp. Nô lệ hay tự do. Đàn ông hay đàn bà. Nhưng tất cả là một, trong Đức Kitô.” (Gl 3: 28)

Và khi đó, xã hội ta sẽ là xã hội của tình bằng hữu, rất thiết thân. Xã hội giải thoát khỏi mọi định kiến. Cãi tranh. Giành giựt. Nhưng, rất mực yêu thương yêu. Yêu Công lý. Thương hoà bình.

Trong ý thức sự thật, ta hãy cùng hát to với người anh/người chị, lời ca đầy phấn chấn:

“Giọt mưa trên lá bối rối, bồi hồi

Ráo riết, miệt mài, anh biết yêu lần cuối.

Giọt mưa trên lá bỡ ngỡ, xôn xao,

Cuống quít, dạt dào, anh biết yêu lần đầu.”

(Phạm Duy – Giọt Mưa Trên Lá)

Một khi đã yêu, dù lần đầu hay làn cuối, thì anh và tôi, ta vẫn cuống quít. Dạt dào. Ráo riết. Như bao giờ. Cuống quít thương. Miệt mài yêu. Như tình Chúa yêu ta. Đó chính là bài sai, ta cần thực hiện. Cho ta. Cho xã hội, mình sống.

Lm Phan Đỗ Thục Linh

Mai Tá diễn dịch

(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com

hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;

hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com

Thursday 10 June 2010

“Con đường đá sỏi, mình từng đi”

Từng hẹn hò xưa, từng thầm thì.

Tình chết rồi, đường rêu đã phủ.

Một thoáng ngậm ngùi thương tiếc chi?

(thơ Hoàng Hương Trang)

Lk 7: 36-8:3

Đường sỏi đá em đi, cũng là đường mọi người tiến bước. Rêu đã phủ. Từng thầm thì. Tình đã chết. Thế, đường đời anh về, có là đường tình chào đón Chúa ghé thăm. Như, người nữ phụ ở trình thuật, đã làm ngày hôm trước.

Trình thuật ngày hôm trước, kể về người nữ phụ đổ dầu rửa chân Chúa, ở nhà Simôn Biệt Phái, rất Pharisêu. Trình thuật kể, là kể về người Pharisêu mời Chúa đến nhà mình, để có lợi. Thời của Chúa, nhóm Biệt Phái đông đến 6 ngàn ngưòi. Họ có mặt ở tận Palestin. Được quyền dạy dỗ ở nguyện đường. Ăn mặc, lại chỉnh tề. Và còn, tự coi như mình có quyền chú giải Lời Chúa và điều hành mọi chuyện ở đền thờ, rất oai phong.

Ý đồ của Biệt Phái Simôn, thật ra cũng không rõ rệt. Có thể, ông chỉ muốn khoa trương với mọi người, là: ông có khả năng mời Chúa đến nhà. Có thể là, ông chỉ muốn thách thức về cung cách Chúa hành xử. Giảng dạy. Đối ứng với tâm trạng đầy cao ngạo của ông, Chúa vẫn nhận lời cùng bàn với mọi giới. Từ nhóm người quyền thế. Đến đám tệ nạn. Bê tha. Tội lỗi. Ngài không kỳ thị, xa cách một ai. Dù người ấy sang/hèn. Giàu/nghèo. Ngài vẫn đến. Cùng ăn trên giường, theo thói tục của Do thái.

Thật sự, thì Biệt Phái Simôn hôm ấy, muốn đặt Ngài vào trạng thái khó xử. Nên, đã để ngỏ cửa cho người nữ phụ lăng loàn/tội lỗi, bước vào nhà. Để minh chứng, là nhà của bậc cao sang quyền quý, không đóng kín. Thách thức hôm nay, từa tựa truyện người nữ ngoại tình, đáng ném đá. Vào buổi khác.

Trình thuật hôm nay muốn chứng tỏ, hành vi của người nữ phụ, rất thật tình. Cũng giống như hành động của mọi phạm nhân khác, dẫy đầy ở xã hội. Phạm nhân hôm ấy chỉ muốn gặp Chúa, vì nghe nhiều về Ngài. Nên, muốn một lần được diện kiến. Thế nên, chị đã lẳng lặng bước vào trong, để gần Chúa, trước khi bị ngăn cản.

Thoạt thấy Ngài, chị đã bật khóc. Nước mắt dàn giụa đẫm ướt chân Ngài. Vội lau chân Ngài bằng suối tóc. Suối tóc đây, là biểu tượng chỉ muốn đậy che quá trình tội lỗi, đáng chê trách. Hành vi hôn chân đổ dầu, còn diễn tả trạng huống thống hối, rất thường tình. Của người xưa.

Biệt Phái Simôn, dù dễ tính cách mấy, cũng thấy khó chịu. Khó chấp nhận cảnh tượng người nữ lăng loàn không mời mà đến, dám dùng nước mắt lau chân Vị Thực Khách Cao Sang, ngay ở nhà mình. Ông bèn suy tính: nếu Đức Giêsu thực sự là Vị Ngôn Sứ như mọi người đồn, hẳn cũng biết người nữ phụ ấy tai tiếng đến thế nào. Chí ít, còn cho phép chị thực hiện ý đồ đầy xúc phạm, ngay trước mắt.

Đức Giêsu biết rõ người Biệt Phái tên Simôn, đang nghĩ gì. Định làm gì. Ngài bèn kể cho ông nghe một ví dụ. Để thử lòng. Để rồi, áp dụng vào tình huống đang xảy đến, chủ ý muốn nói: ông cũng là người rất có tội. Nhưng không biết mà thôi. Tội của ông, là không lịch sự đủ với đấng bậc cao sang vị vọng, trong giao tiếp. Không cho khách rửa tay chân. Cũng chẳng ôm hôn hoà bình. Chào đón. Theo phong tục thời buổi ấy.

“Tội của chị tuy nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị yêu mến nhiều.” (Lc 7: 47) Như thế có nghĩa: người nào yêu ít, được tha ít. Và điều này, được áp dụng cho mọi giới. Cả Biệt Phái. Kinh Sư. Lẫn nhà Đạo. Thế rồi, quay về phía nữ phụ, Chúa nói:“Tội của chị đã được tha!” (Lc 7: 48) Đây, là xác quyết thực tế, hơn là độc thái hoá giải. Vì thế, người cùng bàn mới tự hỏi: “Ông này là ai mà lại tha được tội?” Nghe thế, Chúa bèn thêm: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Hãy đi bình an.” (Lc 7: 50)

Ở đây, muốn nhận rõ điểm đặc trưng nơi trình thuật, người nghe phải đi sâu vào truyện kể, để thấy được ý chủ lực, của tình tiết. Tình tiết, cho thấy sự bình an nội tại và sự tự do của Chúa, khi sự việc xảy đến. Chúa không lúng túng. Chẳng khó chịu. Ngài không rút lui. Cũng, không bảo người nữ phụ hãy ngưng làm.

Ở đây nữa, hành vi của chị mang nhiều cảm xúc. Hối hận. Và, thực khách hôm ấy –cũng như người nghe hôm nay- đều thấy bực bõ. Khó chịu. Trước cảnh ngứa tai. Gai mắt. Khá lạ kỳ. Chỉ có Chúa không tỏ dấu gì hết. Vì Ngài biết rõ việc chị làm. Và, Ngài chẳng bận tâm đến động thái của người bàng quan, đứng ngoài. Thường vẫn suy nghĩ khác. Và, hành động, theo cảm tính. Có khi còn bẻ quẹo.

Sự thật ở đây, người nữ phụ xử sự rất thật tình. Hối hận. Bận tâm. Nên, chị có được kết quả. Có được lòng mến tràn đầy, từ Đấng có quyền uy tha thứ. Ngài thứ tha, nhưng không phô trương uy quyền được Cha ban cho. Trái lại, sự hối cải và niềm tin nơi chị đã đem lại cho chị ơn thứ tha. Thứ tha, là hành động diễn tả tình thương dâng tràn, kịp đến. Yêu thương và lỗi phạm, hai phạm trù không thể có chung một đất đứng. Cả hai không thể cùng ở chung nơi một người. Người nữ phụ lăng loàn hôm ấy, đã thực tình thương mến Chúa. Nên vì thế, có thể chị không là kẻ bê tha. Rất đáng tội.

Xã hội hôm nay, rất nhiều người làm quấy dù chỉ một lần trong đời, nhưng vẫn bị các mũ chụp, kéo dài suốt cả quãng đời còn lại, của chính họ. Dù họ thực tình muốn sửa đổi. Thiên Chúa không xử sự với con người, ra như thế. Ngài xử với con người, theo tình thế của chính họ. Ở đây. Bây giờ. Quá khứ của con người, không quan trọng, đối với Chúa. Quan trọng chăng, chỉ mỗi điều, là nay ta sống như thế nào? Xử sự ra sao? Có tương quan với Chúa, với mọi người, không?

Bài đọc 1 liên kết truyện kể về người nữ phụ tội lỗi, với Đavít. Ông tuy là người đạo hạnh, nhưng cũng có quá trình cướp vợ của vị tướng dưới trướng, là Uriah. Ông đã đưa vị tướng này vào chỗ chết. Kịp đến khi, tiên tri Nathan vạch trần tội của mình, ông đã hối. Nhờ đó, mới được thứ tha. Bài đọc hôm nay cho thấy Chúa xử sự khác người phàm. Ngài đặt nặng vào tha thứ. Chứ, không trừng phạt.

Bài đọc 2, thánh Phaolô cũng đã viết:“Người phàm được nên công chính, không vì đã làm những điều Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô.” (Gl 2: 16) Đó, là khác biệt giữa hành vi của Biệt Phái Simôn với nữ phụ tội lỗi. Nhóm người Biệt Phái có thói quen coi trọng việc giữ Luật, thôi. Nên, đã xét đoán người khác, cách sai lầm. Trong tầm nhìn của nhóm này, thì nữ phụ tội lỗi hôm nay, không đáng có được chỗ đứng trong xã hội. Trong khi đó, nữ phụ tội lỗi chỉ biết đặt mình dưới chân Chúa, mà hối cải. Thế nên, Chúa chấp nhận tha thứ cho chị. Và, tội của chị được hoá giải, nhờ lòng tin.

Lòng tin, không là động thái tri thức. Mà, là tác động của tình thương. Tin tưởng. Nhiều người trong đời, vẫn có thể liệt kê cả một danh sách dài đằng đặc gồm các tín điều về lòng tin, nhưng suy nghĩ của họ tuy có khác với Biệt Phái Simôn hôm nay, nhưng vẫn có thành kiến. Tức, quyết không dung tha. Và, ít nói đến yêu thương. Tha thứ. Hãy hiểu rằng, nếu agape, là cụm từ diễn tả “lòng mến” của Chúa, thì pistis là ngôn ngữ nói lên niềm tin, mà ta cần có để đáp lại lòng mến ấy.

Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm từng trải về chuyện chết với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Nên, có câu nói để đời, như sau: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2: 20). Vì đã kết hợp với Chúa, nên thánh nhân đã yêu mến Chúa hết mình. Cũng tựa như người nữ phụ tội lỗi, ở trình thuật. Đó, là gương lành cho mọi người. Đó, là ảnh hình ta noi theo.

Về các nữ phụ đáng trân trọng, trong Kinh Sách, Dorothy Sayers có lần viết:“Có lẽ, đó là điều làm ta không mấy lạ khi thấy người đầu tiên có mặt bên nôi Chúa, là phụ nữ. Và, người cuối cùng ở lại nơi thập giá, cũng là nữ phụ. Các vị, chưa từng quen nam nhân nào như Đệ Nhất Nam Nhân Ngôn sứ, và là Thầy dạy, không rầy la. Nhưng vẫn hạ mình. Phục vụ. Đó, sự thể rất dễ nực cười, nhưng cao cả biết bao. Đó là thân phận người phụ nữ, mọi thời. Mọi chốn.”

Thân phận ấy, cũng là thân phận của mọi người, trước mặt Chúa.

Trong tinh thần chấp nhận thân phận của người phàm, quyết ra đi hiên ngang mà ca hát:

“Anh hãy đi cùng tôi

Đến mãi tận chân trời

Lặng nghe từ đất mới

Nói thầm về ngày mai”

(Trịnh Công Sơn – Hãy đi cùng nhau)

Đi cùng tôi. Mãi tận chân trời. Đi, để đến với Chúa. Với mọi người. Trong đời. Đi, để thấy rằng Chúa vẫn chờ đợi mọi người. Nơi những kẻ mang thân phận bọt bèo, tội lỗi. Đang cần ta. Chờ ta.

Lm Phan Đỗ Thục Linh

MaiTá diễn dịch

(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com;

hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;

hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com)