Saturday 29 October 2011

“Nếu hạnh phúc sẽ khơi nguồn đau khổ,”


Suy niệm Chúa Nhật thứ 32 thường niên năm A 06.11.2011
“Nếu hạnh phúc sẽ khơi nguồn đau khổ,”
“Thì xin em đừng tìm đến với nhau.”
(dẫn từ thơ Phạm Ngọc)
Mt 25: 1-3
Tìm đến nhau, là để mang lại hạnh phúc, cho nhau. Đó là sự thật. Nhưng, sao nhà thơ lại nói: xin em hãy đừng tìm! Tìm hay không, vẫn là chuyện khôn chứ đâu là dại. Khôn dại/dại khôn, thánh sử nhà Đạo xưa nay vẫn giải khuyên qua dụ ngôn truyện trình thuật. Có cân nhắc. Ngợi khen. Tung hô.

Trình thẫt thánh Mátthêu hôm nay, cũng ngợi khen/tung hô việc của Chúa, bằng nhiều cách. Cách dễ nhận nhất, là dụ ngôn. Dụ ngôn hôm nay thánh sử đặc biệt kể về các cô phù dâu khôn ngoan đáng cho mọi người nhận biết mà phân biệt dại với khôn. Khôn/dại, ở vào tình huống đợi chờ chàng rể tới, không biết trước. Vì, chàng rể đến bất chợt nên nhiều phù dâu chưng hửng, những vãn than về cảnh đột ngột, khó đoán trước. 

Thời Chúa sống, đám cưới là sự kiện lớn trong sinh hoạt làng xã, mỗi một ngày. Sự kiện lớn đến độ người người trong làng đều quan tâm, muốn dính dự. Tiệc tùng lớn, có khi kéo dài nhiều ngày, cả tuần lễ. Có tiệc còn tổ chức vui chơi đình đám suốt ngày đêm. Về phù dâu ở dụ ngôn, các cô đều là thôn nữ trẻ phần đông có quan hệ với nhà đám; tức, những người có vai vế quan trọng trong nghi thức tiệc rượu vui chơi, múa hát. Có phù dâu dự cưới, là có dễ vui và chắc chắn tiệc sẽ đạt.

Dụ ngôn, nay kể rằng chú rễ đến khá trễ. Đây, là trường hợp rất phá lệ. Thường, thì chú rể nào cũng hăng say tìm đến với ngày cưới, rất không trễ. Vì cứ đinh ninh là thế, nên cánh phù dâu nhà ta mới thiếp đi và ngủ cả. Ngủ nghỉ, tuy thực chất không là vấn đề với đám cưới. Bởi, nhiều người có thể thức trắng đêm, cũng chẳng cần ngủ. Và, các phù dâu còn có thể thức giấc vào bất cứ lúc nào, khi chàng rể chợt đến. Nếu chàng đến vào nửa đêm  -thường thì ít khi là thế- tất cả đều cần đèn đóm, ánh sáng, nên rất muốn có dầu để đốt sáng. Muốn vậy, phù dâu phải chuẩn bị cho đủ, để khỏi lỡ mất cơ hội. Bởi, nếu không biết cách mà chuẩn bị, phù dâu ta phải bổ đi lùng tìm cho bằng được dầu đốt để thắp đèn, còn gì là vui. 

Dụ ngôn, nay cũng kể về hai nhóm phù dâu. Một, luôn đề cao cảnh giác. Còn nhóm kia, chẳng chuẩn bị hoặc quan tâm gì đến đèn đóm. Dụ ngôn hôm nay, thoạt nghe có vẻ hơi mù mờ. Đọc kỹ, hẳn có người sẽ tự hỏi: làm sao nhóm phù dâu khôn lanh kia, lại không chỉ cách cho nhóm khờ dại biết sớm hơn, để cả hai cùng nhau chuẩn bị cho chu đáo. Tại sao nhóm khù khờ dù có dại cách mấy cũng phải biết cử một hai người đi lùng tìm dầu, chứ sao lại phải đi cả nhóm? Phải chăng, ngay lúc đó đã có căng thẳng, vì chú rể đã mướn toàn bộ số phù dâu để đạt hiệu quả tối đa cho tiệc cưới, nên toàn bộ nhóm phù dâu có thể hụt trọn cả lễ cưới? Nói tóm lại, hốt hoảng ở trường hợp nào cũng thế, thường lấy đi sự suy xét bình thường rất cần thiết của con người.

Sự thật mà nói, ở đời thường người khờ khạo thường là những người luôn chịu thua thiệt. Nên, dễ bị người khác chèn ép coi nhẹ như người không biết gì. Chí ít, là chuyện đạo đức, luân lý, rất trí thức. Chuyện dụ ngôn về người khờ khạo và khôn ngoan có thể áp dụng vào mọi người nói chung. Nói chung, là nói về những người không làm gì nên chuyện, hoặc cho ra hồn, nhưng vẫn muốn đạt lương tiền hậu hĩ, giống “mì ăn liền”. Như người đi tìm việc được gọi đi phỏng vấn, lại cứ khăng khăng theo ý mình đội mũ ngược ngạo, chẳng giống ai. Cũng tựa như đám học trò chẳng chịu học nhưng lại cứ muốn đậu cao, có đủ bằng cấp, nhưng thực chất lại ngu dốt. Như đôi uyên ương nọ chỉ biết lấy nhau để gần nhau mà ăn ở cho vui sướng, chẳng lo gì chuyện tương lại mai ngày, để có con.

Dụ ngôn, nay không chỉ kể, có thế. Nhưng thực sự, còn muốn diễn tả về tình hình Giáo hội mọi thời đang ở vào tình trạng của phù dâu. Chàng rể nói ở đây, là Đức Kitô. Việc “chàng rể đến chậm” là ý nói về ngày quang lâm Chúa lại đến cũng chầm chậm, theo quan niệm của cộng đoàn Hội thánh lúc ban đầu. Dụ ngôn đây, là: truyện dài cốt để kể lại sử hạnh Hội thánh thời ban sơ. Về tiêu chuẩn Chúa phán xét định đoạt về Giáo hội vào ngày Ngài đến lại.

Hình ảnh làm nền ở dụ ngôn hôm nay, là về dầu đốt. Nghe về dầu để đốt, hẳn có người sẽ nghĩ về niềm tin đốt cháy. Tức, lòng siêng chăm, sùng đạo. Về cung cách quản, tài lãnh đạo, hoặc: lòng độ lượng, thứ tha, đùm bọc, rất phục vụ, hoặc những chuyện như thế. Cũng may, là trình thuật hôm nay thực ra chẳng đề cập gì về những chuyện như thế. Vậy thì, về vấn đề gì? 

Đoạn cuối trình thuật có nói:“Cửa đóng lại.” Và chàng rể đây, là Đức Giêsu lại muốn bảo: “Ta không biết các người.” Không biết ở đây, là không được Ngài biết đến. Không biết, là: không biết theo cách riêng tư như quan hệ bạn bè, chỗ thân quen. Không biết đến, chẳng phải là: ta không biết đến Ngài. Mà là: Ngài không hề biết ta. “Không biết đến ta”, tức hỏi rằng: không biết Chúa có còn đoái hoài đến ta hoặc mọi người? Phải chăng Ngài vẫn coi ta như dân con của Ngài? “Không biết đến ta”, còn có nghĩa là: ta có làm những việc “đáng làm” như Ngài, không? Đó, là những vấn đề đích thực đặt ra cho những ai tự gọi mình là Kitô- hữu. Tức Kitô khác.

Được Chúa biết, theo cách thế tự do như bạn bè người thân của riêng Ngài. Được Chúa biết, cũng đòi ta phải có cung cách xử thế như dân con được Ngài quang lâm đến lại. Được Chúa biết, là biết vào khoảnh khắc như Ngài từng loan báo vào thời trước. Được Chúa biết, còn diễn tả việc Chúa am tường mọi hành xử của Hội thánh trong quá khứ, hiện tại và mai ngày. Nói tóm lại, câu Chúa nói “Ta không biết các ngươi”, có nghĩa Chúa đã nhận ra được những việc làm “thật không phải”. Không thực tâm làm, như lời Ngài khuyên dạy. 

Khi ta làm việc gì tốt lành, chắc chắn Chúa sẽ cảm kích, phấn chấn và cũng ngạc nhiên. Ngài sẽ đưa ta vào với nhóm hội của muôn người ở thế giới, để Ngài sẽ hiện diện trong ta, rất tự do. Cởi mở. Và có như thế, ta mới nhận ra thiên đường hạnh phúc Ngài hứa ban bằng vào việc sử dụng sự tự do của chính mình.

Không nên hiểu câu nói của Chúa “Ta không biết các người.” như Chúa biết tất cả về đời ta qua lăng kính của vi tính, dù mọi sự đều hiện ra ở trên đó. Bởi, nếu như thế, chắc Chúa cũng sẽ buồn chán khi phải ngắm nhìn ta chuyển vận. Thật sự thì, Chúa không là Đấng chuyên kiểm soát vũ trụ vạn vật, theo cách đó. Ngài là Đức Chúa tự do, sống động và mật thiết với ta. Ngài cùng làm và cùng vui với ta trong muôn việc, ở đời.

Nếu so sánh Chúa với ta theo kiểu nghệ nhân đầy sinh lực, thì Chúa như nghệ sĩ bộ môn nhạc Jazz, chơi nhạc rất ngẫu hứng với ta, ở mọi thời. Ngài chấp nhận mọi hiểm nguy, cả khi ta tự do đối xử xem ra không ổn, như “người của Chúa”. Cả vào khi ta chơi nhạc Jazz mà lại chơi sai nốt trật nhịp. Ngài tuy biết, nhưng vẫn nhìn thoáng qua trong chốc lát, cứ để ta chơi tiếp. Nhưng, khi ta chơi nhạc đúng cách như người hành xử rất xứng hợp ở đời, thì Ngài sẽ cảm kích, biết ơn. Nói tóm lại, đó là cách thức để “biết đến ta” rất hay và rất thực như sự thực xảy đến trong cuộc đời. Của con người.

Nói theo kiểu dụ ngôn, thì chính đó là dầu đốt. Bởi thế nên, thể hiện tinh thần của trình thuật, là: sống thực. Sống, như mục đích ta sử dụng tự do của mình, để đem đến cho Chúa một thưởng lãm rất thực, để được Chúa nói ‘đã biết ta’. Đó, là thiệp mời. Là, tấm vé về dự tiệc cưới. Lễ hội của tự do. Giả như ta không làm thế, thì không thể gặp mặt chú rể cách đích thực như phù dâu có đèn mà không có dầu. Không làm được thế, chắc chắn rồi ra Ngài sẽ bảo: “Ta không hề biết các người”, như ngôn ngữ của trình thuật hôm nay.

Cuối cùng, có chuẩn bị chu đáo như thế không, mới là vấn đề. Vấn đề của ta. Và, mọi người.              
Trong tâm tình đó, cũng nên ngâm tiếp lời thơ vừa chợt hát, để cảm kích hát mãi:  

“Quỳnh chỉ nở về đêm trong giấc ngủ
Như tình yêu chỉ đẹp lúc ban đầu
Chẳng có gì tờn tâi đến ngàn sau
Khi cơn mộng mù loà đêm dâng hiến”
                        (Phạm Ngọc – Với Quỳnh)

Với quỳnh, thì như thế. Thế còn với Chúa, chắc không hẳn thế. Bởi, Chúa là Tình Yêu, Ngài sẽ cứ tồn tại mãi đến muôn đời. Để, người người ngợi khen Ngài mãi khôn nguôi. Ngợi Tình Chúa. Khen tình người tồn tại mãi chốn thiên thu. Rất bất tận. 

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh.
Mai Tá lược dịch. 

            


Saturday 22 October 2011

“Hồn khẳng khiu khát chờ trăng mở hội,”


Suy niệm Chúa Nhật thứ 31 thường niên năm A 30.10.2011

“Hồn khẳng khiu khát chờ trăng mở hội,”
“Ngỡ ngàng đêm mộng điệp thốt lời ca.”
(dẫn từ thơ Vương Ngọc Long)
Mt 23: 1-12
Chờ trăng mở hội, hồn nào mà chẳng chờ. Mở hội rồi, hồn cứ ngỡ mộng điệp, nên mới thốt lời ca. Lời ca hay lời hát, đâu chỉ có từ những người từng hát ca, cả một đời. Hát hay ca, cả ở hội đường. Nhưng, sống khác hẳn điều mình giảng và hát như trình thuật nói hôm nay
Trình thuật hôm nay, thánh sử Mát-thêu dùng lời lẽ khá cứng cỏi để lên án đấng bậc nào chủ trương giữ luật, nhưng không sống điều mình chủ trương. Người xưa gọi họ là đấng bậc rất Pharisêu. Ngày nay ta gọi họ là gì? Là ai? Phải chăng là bậc thày có ngai cao bục giảng, chẳng có lòng?
Là, dân dã tầm thường ở đời, cùng với Giáo hội, ít khi ta đứng lên mà chống trả/phản bác các đấng bậc chuyên giảng thuyết có lời khuyên. Bởi làm thế, ta sẽ bị người đồng đạo trách móc cho mình thuộc thành phần bất mãn với quyền lực, ở trên. Với thánh Mát-thêu, chẳng ai dám trách ngài là người như thế, dù thánh nhân dám viết về Biệt Phái/Kinh sư không gì tệ hơn.
Xét cho cùng, ta thấy thánh sử cũng có lý. Bởi, vào thời trước, Kinh sư/Biệt Phái vẫn có thiện cảm với Chúa. Chỉ sau này, khi Giêrusalem bị tàn phá, hồi niên biểu 70 sau Công nguyên, nhóm này mới trở thành đoàn ngũ độc tài thống trị mọi người ở Do thái. Họ tụ tập nhau ở Yebneh (Jamnia) lập ra triết thuyết mà ngày nay ta gọi là thuyết Giuđa tư tế phẩm trật, vẫn tồn tại. Các nhóm chuyên kình chống tín hữu tiên khởi như cộng đoàn Mátthêu ngõ hầu duy trì chỉ nhóm mình, thôi.
Thánh Mátthêu vốn người hiền lành, chân phương, tử tế. Nhưng khi gặp chuyện chướng tai gai mắt, ngòi bút nhẹ êm lại biến thành ngòi châm chích quyết tấn kích loài độc ác, để bảo vể Tin Mừng của Chúa. Các đấng bậc sẽ vung tay tấn kích loài lang sói và quyết liệt lên tiếng chống cự.
Thông điệp thánh Mátthêu gửi đến mọi người, là: ta chỉ chấp nhận quyền uy ở bên trên, chứ không hề chấp thuận lối sống bê tha, bệ rạc của mấy người. Các vị ngồi trên ngai bệ Môsê, nhưng không biết hành xử và sống như vị tổ phụ. Khi thánh sử Mátthêu viết “Những điều họ nói, các ngươi hãy làm và giữ lấy”. Đây chỉ là dẫn nhập. Điều, mà thánh nhân muốn nói, là: hãy nhìn cách họ sống, chứ đừng bắt chước. Bởi kiểu cách thì nhiều, nhưng sống thực lại ít. Họ còn tệ hơn cả gái làng chơi, không xứng với Nước Trời. Tức, nào khác người mù dẫn dắt kẻ mù, cả hai đều sẽ lăn cù xuống hố.
Về đường lối họ sống, đây là ba điều để chống lại:

1)      Họ không thực hiện điều mình giảng;
2)      Họ trao gánh nặng lên vai người khác;
3)      Họ làm mọi sự chỉ để phô trương và muốn được khen ngợi.

Điều ấy chứng minh: họ chỉ là:

1)      Người giả hình;        
2)      Những người nặng nề, lê thê không muốn tiến;
3)      Và chỉ là người vênh vang hãnh tiến, phô trương đánh bóng chính mình thôi.

Dùng ngôn ngữ thời đại, phải gọi họ là kẻ “đâm sau lưng chiến sĩ” ở cấp trên.

Nói chi tiết, điểm cuối cùng cho thấy các đấng bậc nói ở trên làm mọi chuyện chỉ để phô trương với mọi người. Chỉ muốn tìm chỗ cao trên ngai bệ thờ phụng, để mọi người thấy. Ăn, thì chỉ ăn trên ngồi chốc, hết phần người. Mặc, thì súng sính những lụa là, đai mão rặ màu vàng đỏ. Đi đâu cũng võng lọng, gậy, mão, quyết tháp tùng. Nếu họ còn sống đến ngày nay, chắc chẳng ai dám chối từ mão, đai, giải lụa hoặc mũ chụp, nhiều sắc tiá. Danh xưng thưa gửi, cứ muốn mọi người một điều “trọng kính” hai điều: “Đức thánh”, hoặc “thưa Ngài”, nghe oang oang.
Đọc trình thuật, có người sẽ bảo: nếu vậy ta chẳng nên nhận áo mão, chức vụ ở trên cao, hay sao? Nhận thế, có gì tệ? Nghe hỏi thế, có thể thánh Mátthêu sẽ trả lời: tuỳ lý do hoặc động lực thúc đẩy ta tìm kiếm, thế thôi. Chỉ thành vấn đề, khi người nhận chức cao quyền trọng chỉ để đề cao, thăng tiến chính mình. Chỉ thành vấn đề, khi người bị trị hoặc sống chung quanh nhận định thế nào, về quyền chức. Nếu trả lời: ‘mọi người đều thế, tôi cũng thế’ thì câu này chưa hẳn là đúng, dù rất thực. Thế, những người không thể hoặc không làm thế, thì sao? Sao ta không cúi xuống nhập bọn, ở cùng hàng?
Quả là vấn đề như vừa kể. Vẫn nóng bỏng thời hiện tại có xã hội và Giáo hội như xưa và cả đến hôm nay. Xưa và nay, nhiều mục tử và thừa tác viên trong Đạo hẳn vẫn muốn thứ gì đó rất riêng tư? Đặc biệt? Đặc biệt, nơi vai trò. Đặc biệt, ở thế lực. Lịch sử trải dài nhiều thế kỷ vẫn cho thấy: các đấng bậc vẫn dính dự với lối sống này khác mà thực ra công việc thừa tác của mình đâu đòi thế. Thế nên, có vị cứ súng sính áo chùng rủng rỉnh để mọi người quan tâm, ngắm và nhìn. Có vị còn đeo mang trang phục rất đặc biệt để tỏ cho mọi người biết mình cũng có đặc quyền/đặc lợi, tỉ như các “vị cảnh sát” nơi phố chợ/huyện nhà! Có vị, chỉ muốn sử dụng danh xưng rất đặc biệt tuy không hợp chức năng/nghề nghiệp, của ai hết.
Nếu thánh Mátthêu nay bắt gặp những người như thế trong lòng Hội thánh, ngài có gay gắt như xưa không?
Để trả lời, câu dễ nghe nhất, có lẽ là: thánh nhân sẽ cân nhắc bề dày lịch sử, để rồi sẽ bảo rằng: mọi việc không thể đổi thay nội một ngày. Dù, ngài hy vọng về lâu về dài, mọi chuyện sẽ thay và đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Và, thánh nhân có lẽ sẽ hỏi đích thân các vị ấy, như từng hỏi và yêu cầu mọi người hãy sống thực tế. Cả vào khi mọi người làm vì sinh kế. Hoặc, để bảo vệ nồi cơm, manh áo, dù đâu muốn. Và khi ấy, chắc hẳn thánh nhân chỉ muốn bảo: hãy biến nơi làm việc của mình thành nơi chốn giúp mình sống đời tín hữu rất đích thực. Tức, chỉ làm những điều lành thánh đúng vai trò. Không se sua. Bè phái. Cũng chẳng cần “bùa phép”, lãng phí điều chi.     
Có lẽ, thánh nhân sẽ có thêm nhiều ý tưởng để viết về chức năng/vai trò của người thừa tác công việc Hội thánh hoạch định, như linh mục. Có người phỏng đoán: có lẽ thánh nhân cũng muốn linh mục và thừa tác viên trong Đạo chỉ chấp nhận thực thi công tác mục vụ/rao giảng nào được đề ra cho mình thôi, chăng? Thời buổi này mà nói thế, e hơi lạc điệu. Lạc, cả cung giọng trầm bổng rất hăng say/nhiệt nồng hơn thời cổ, ở cộng đoàn Mát-thêu tiên khởi?
Kể cũng khó định vị trình thuật sao cho hợp với thời buổi hiện tại có nền văn hoá của sự chết, như ngày nay. Thế nhưng, thánh Phaolô khi xưa vẫn nghĩ và sống như thế suốt đời mình. Phaolô thánh nhân luôn chỉ sống như người thợ may âm thầm chế biến lều/bạt để kiếm sống. Thánh Mátthêu cũng nghĩ thế và sống như thế. Ngài chỉ là người thày viết lách và dạy học để kiếm sống, thế thôi.
Đức Giêsu cũng thế. Chúa cũng chỉ sống giản đơn hiền từ như thế. Chúa là bác thợ đơn thần nghề mộc cốt sinh sống. Nếu còn hiện diện đến ngày nay, hẳn thánh Mátthêu sẽ ngạc nhiên không ít khi nhận ra rằng Hội thánh mình đã phải trải qua bao thăng trầm để hội nhập, trải dàn như một thể chế, để ta hưởng. Nhìn ra thế, chắc hẳn thánh nhân lại sẽ viết thêm một trình thuật khác khá gay gắt để đòi ta từ bỏ lợi lộc hoặc áo sống khá đặc biệt, hoặc chức vị đặc trưng nào đó để trở thành dân dã đơn thuần như Đức Giêsu từng sống thế và muốn ta nên như thế.
Viết lên trình thuật, thánh Mát-thêu không chỉ muốn gửi cho vua quan/lãnh chúa thời hôm trước. Mà, cho dân con đồ đệ người của Chúa, ở mọi thời. Những thời và buổi còn đó, những người sống bên ngoài và bên dưới võng lọng cùng ngai bệ của vua, quan, giới chức. Để, mọi người suy ra mà khởi sự thực hiện chuyện phải lẽ, ngay từ nhà. Nhà mình. Nhà Chung, là thánh hội rất đáng thương. Đáng mến.
Trong tâm tình gửi gắm rất như thế, ta cũng nên ngâm lên lời thơ còn đó cũng khá buồn, rằng:

                        “Em còn đó, xoã lòng đêm tóc rối.
                        Tôi đứng đây, bụi lốc mịt mù xa.
Nghìn mắt lá, đang nhìn tôi ái ngại.
                        Đêm ngyuệt quỳnh hoá nở kiếp phù hoa…”
                        (Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)

Nguyệt quỳnh hay nguyệt vọng, là đêm ngày ta đứng đó mà ngó nhìn. Nhìn, cảnh trời mây nước có trăng giăng đầy tình tự. Có cả những vị chẳng cần biết chuyện phải chăng. Lưu tâm gì đến điều mà Đấng bậc nhân hiền lành thánh vẫn khuyên răn vào mọi thời, gửi đến muôn người, rất hôm nay.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá lược dịch.

“Gặp một bữa, anh đã mừng một bữa,”


Suy niệm Chúa Nhật thứ 30 thường niên năm A 23.10.2011
“Gặp một bữa, anh đã mừng một bữa,”
“gặp hai hôm, thành nhị hỷ của tâm hồn.”
(dẫn từ thơ Nguyên Sa)
Mt 22: 34-40
Sống đời người, phải chăng anh sống chỉ như thế. Sống đạo hạnh, anh sống hơn thế chăng? Như thế hoặc hơn thế, là lập trường sống an lành như thánh sử rày diễn tả ở trình thuật hôm nay.
Trình thuật nay thánh Mát-thêu đưa ra bối cảnh trong đó có tranh chấp giữa nhóm người tự cho mình là đệ tử thuần thành của Thiên Chúa và Biệt Phái. Nên, họ đã tìm đến Đức Giêsu để xem Ngài tranh luận với Biệt Phái “căng” đến độ nào. Và, họ nghĩ: Ngài không thể nào khôn ngoan/mồm mép bằng đám người chuyên tranh luận, nguỵ biện về nhiều thứ.
Tin mừng thánh Mác-cô khi trước cũng đưa ra bối cảnh tranh luận cũng nóng bỏng như thế. Nhưng đám kinh sư hôm ấy, chừng như có dụng ý xem ra tích cực hơn. Tin Mừng thánh Mátthêu, nói đến một người trong họ nguyên là chuyên gia luật Torah cvủa Do thái, và  có thể là tư tế, đã thách thức Chúa thử tài cãi tranh/biện luận xem Ngài tài đến cỡ nào.
Người thách thức Chúa, thừa biết rằng 613 khoản luật Torah đều có giá trị ngang bằng. Nhưng người thách thức nay lại chơi “khăm” muốn bắt nọn Đức Chúa và biết chắc Ngài sẽ rơi vào bẫy cạm của người vấn nạn đưa ra.
Điều quan trọng là ta nên suy nghĩ về lời Kinh thánh: “Hãy lắng nghe, hỡi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Những lời tôi truyền hôm nay, anh em phải ghi lòng tạc dạ.” (ĐNL 6: 4-6) “Đó là điều răn đầu quan trọng nhất.”(Mt 22: 39).
Điều răn đầu quan trọng nhất, ấy là: “Hãy lắng nghe” (Shema)! Đó, còn là lời nguyện cầu cơ bản mà người Do thái vẫn đọc nhiều lần trong ngày. “Hãy lắng nghe”, là nghe và chú ý hết mình. Là, trườn người về phía trước. Tựa mình lên đó mà tin tưởng vào điều mình khó lòng đạt được nếu không chú ý. Tựa hồ như ta chẳng thể nào suy tư về lề luật trừ phi ta áp dụng luật lệ ấy, ngay từ đầu.
Ta thấy gì khi lắng nghe? Thấy lời kinh của tổ phụ vẫn bảo: “Đức Chúa là Thiên Chúa Duy Nhất!” Ngài là Giavê Thiên Chúa của Do thái. Ai cũng biết. Nhưng không ai được kêu tên cực trọng của Ngài. Danh xưng mà họ thường dùng trong chỗ thân quen, là “Đức Chúa” (tức Adonai). Thế nên, khi lắng nghe, ta sẽ khám phá ra Đấng Duy Nhất mà Danh Ngài không thể phát ra thành âm thành tiếng. Và, ta chỉ khám phá ra mỗi một điều: Đức Chúa của ta là Đấng Duy Nhất, chỉ “Có” một.
Nói thế, không để bảo là: chỉ Thiên Chúa là Đấng Duy Nhất, mà để nói rằng: Đức Chúa Duy Nhất mang tính độc nhất vì đặc trưng của Chúa là độc nhất vô nhị. Và, đó là bí nhiệm của thực thể. Hãy lắng nghe, vì có thể ta sẽ nhận ra điều ấy. Hãy lắng nghe và biến việc ấy thành trọng tâm cuộc sống của chính mình.
Khi làm thế, chắc chắn ta nhận ra rằng: bí nhiệm của tính chất duy nhất ấy là của ta. Đức Chúa là Thiên Chúa của ta. Tính “duy nhất” của Ngài là tương quan sống động Ngài có với ta. Là, tương quan mật thiết với ta và trong ta, cách thân thương; và tương quan này đòi có sự hỗ tương, đáp trả.
Chính vì thế, mà người người phải biết yêu thương tính Duy Nhất của Đấng Độc Nhất Vô Nhị hằng thương yêu mình. Giới răn tiên quyết và duy nhất, có nghĩa là không làm bất cứ thứ gì ngoài chuyện thương yêu. Chỉ biết yêu thương. Chỉ biết hướng lòng mình lên cao, để con người mình được kéo về Đấng Độc Nhất và Duy Nhất mình từng yêu mến và mến yêu mình. Giả như Israel không làm như thế, thì Israel chẳng còn là Israel dân riêng của Chúa nữa.  
Nếu người người biết yêu thương Đấng Duy Nhất từng yêu thương ta, Ngài sẽ biến đổi con người ta. Để rồi, ta lại sẽ tập trung toàn bộ chính mình ta vào Đấng Duy Nhất. Có như thế, người người mới yêu thương bằng chính tâm can, linh hồn và thần trí của mình. Và từ đó, khám phá ra nơi mình sự kết hợp vẹn toàn chưa từng có. Và khi đó, ta sẽ giống như Đấng Duy Nhất mà ta thương mến. Sẽ là ảnh hình của Đức Chúa. Và ngay khi ấy, mình cũng khám phá ra chính mình ngay trong khoảnh khắc kiếm tìm ta và lắng nghe Đức Chúa của ta. Chính điều đó, và chỉ mỗi điều đó là luật Torah rất sống động.
Khi Chúa nói: giới răn thứ hai của luật Torah cũng giống như giới răn thứ nhất, ý Ngài muốn nói chính là sự ngang bằng trong cân lượng và tầm mức quan trọng như điều trước nhất. Đó không phải là giới răn “thứ yếu”, mà là giới răn cũng nóng bỏng như giới răn đầu. Đó không là yêu thương toàn thể nhân loại, hoặc yêu những gì trừu tượng hoặc những gì xa vời tầm tay. Cũng chẳng là yêu người cần được yêu ở nơi xa xôi bên châu Phi, Trung Đông hoặc ở Châu Á, nơi quê nhà. Cũng chẳng là bỏ tiền cho bạc vào thùng giỏ quyên góp cho họ. Mà Lời Chúa nói, mang ý nghĩa yêu thương người đồng loại. Yêu theo nghĩa ta vừa nghe biết. Biết lắng nghe người thân cận, đồng loại. Là, khám phá ra nơi người thân cận và đồng loại, tính chất Duy Nhất của Đức Chúa, Đấng từng yêu người đồng loại của mọi người hệt như Ngài từng yêu chính con người ta.
Hướng tất cả lòng mình vào người thân cận, rất đồng loại mang tính Chúa, bằng tất cả tâm can, hồn trí lẫn xác phàm của mình. Đồng thời cũng nhớ rằng: đấy chính là người đồng loại ở cạnh bên. Nơi phố chợ, ở đầu ngõ, mà chỉ thoáng nhìn đã thấy ghê rợn, chẳng hấp dẫn. Chính đó, là những người chưa từng nghe biết, cũng chẳng nghĩ họ sẽ phải tuân giữ luật Torah. Nhưng, chính họ mới là người đầy tràn tính chất Duy Nhất. Đầy tràn tình Thương yêu của Chúa mình.
Mọi người trong ta không thể yêu người này mà lại không có người kia. Tất cả đều chung cùng với nhau. Đó chính là ý nghĩa của Giao Ước. Ý nghĩa từng tỏ cho ta thấy Đức Chúa đã trở nên Thiên Chúa của tất cả chúng ta. Tất cả đều phải trở nên một  thực thể duy nhất, không biến dạng hoặc tản mát thành nhiều thứ, mà trở thành thứ duy nhất, rất kết hợp có Chúa yêu thương và sở hữu. Đó không là chọn lựa thêm thắt. Đó cũng không là chuyện thương hại, thương xót khi người đồng loại rất cận thân và cận lân đang cần điều gì đó, rất bức bách.
Đó chính là đòi hỏi của công bình chính trực của Đức Chúa Duy Nhất của chúng ta. Đòi hỏi của Đấng Duy Nhất. Của thể loại Yêu Thương, chính là Ngài. Đó còn là Giới Luật Vàng, đáng để người người chúng ta quan tâm. Hiểu biết. Và, biến yêu thương thành hiện thực. Hãy cố tuân thủ giới lệnh tuy hai mà một, tuy một mà hai ấy. Và rồi, người người sẽ trở nên Một với Đức Chúa.
Trong tâm tình nhận biết sự Duy Nhất của Chúa nơi Tình Yêu, ta sẽ lại ngâm nga lời thơ rằng:

                        “Em không nói đã nghe từng giai điệu
                        Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh.
                        Anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
                        Với tay trắng, em vào Thơ Diễm Tuyệt.”
                        (Nguyên Sa – Áo Lụa Hà Đông)

Thơ Diễm Tuyệt, cũng vẫn là Tình Yêu Tuyệt Diễm, rất chất Thơ. Thơ chung tình, tuy chưa nhìn và chưa nói, đã “rộng (tới) trời xanh”. Thứ đất trời, “ngất ngây thành chất rượu”. Thành nhị hỷ của tâm hồn rất yêu thương. Tuyệt diễm.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh.
Mai Tá lược dịch. 

            


Monday 10 October 2011

"Ta xót thương, ta căm giận hung cuồng"

Suy niệm Chúa Nhật thứ 29 thường niên năm A 16.10.2011

“Ta xót thương, ta căm giận hung cuồng,”

“Ta gầm thét, rung mấy trời thế sự.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 21: 15-21

Hung cuồng giận căm, là cung cách của người thường, rất ở đời. Rung trời thế sự, cả khi con người dám vấn nạn Đấng Nhân Hiền về việc đóng thuế cho Xê-Da, như được diễn tả ở trình thuật.

Trình thuật, nay thánh Mát-thêu diễn tả về tình thế trong đó những người “hung cuồng” dám gài Chúa vào bẫy cạm của thế sự bằng vấn nạn:“Nên chăng trả thuế cho Xê-da?” Thế sự hôm ấy, đám Pharisêu ngạo mạn và nhóm giáo gian nịnh hót vua quan Hêrôđê ở Do thái, những muốn đặt Ngài vào tình huống nóng bỏng về phục vụ ngoại bang. Họ cứ nghĩ: Ngài có trả lời thế nào đi nữa cũng sẽ làm mất lòng dân. Nếu Ngài nói khác, cũng vẫn rơi vào tròng. Nói cho cùng, họ muốn đặt Ngài vào tình trạng phải đối đầu với phe thân thực dân, để rồi chịu mọi hậu quả. Thế nên, thánh Mátthêu gọi họ là “giả hình”. Nhưng kỳ thực, phải gọi họ là “đám sùng đạo gian giảo”, mới đúng.

Ngược giòng lịch sử, ta thấy đất nước Palestine của người Do thái lúc bấy giờ nằm dưới quyền kiểm soát của La Mã. Tức, những người chuyên bổ thuế nặng nề lên đầu đám dân đen hèn mọn rất thấp cổ bé họng. Vượt biên giới cũng đóng thuế. Mua bán/đổi chác bất cứ thứ gì, cũng chịu thuế. Thậm chí dân con người người còn phải đóng cả thuế đinh, tính trên đầu người nữa.

Thực tế khi ấy, Xê-Da là Tibêrius, con trai của Thượng tế Augustus được dân coi như ông Trời con, rất đáng gờm. Cả Augustus lẫn Tibêrius, vẫn coi mình thuộc giới thần linh, cần được kính nể. Các ông còn tự ban cho mình tước vị cao vời vợi như: lãnh chúa, đấng cứu độ chuộc tội cả thế gian. Và, cho mình có trọng trách quản cai cả và thiên hạ. Nên, việc trước tiên của họ là phải chiến thắng về binh bị, và an bình là đoạn kết rất dĩ nhiên. Rốt cục, người thua cuộc phải chịu mất đi sự an bình, đành phủ phục dưới đất mà ngợi khen kẻ chiến thắng.

Trong giao dịch hằng ngày, người Do thái vẫn sử dụng nhiều tiền kẽm của La Mã. Thế nhưng, khi sử dụng đồng tiền ấy để trả thuế, họ lại coi đây như công việc về tôn giáo – như sùng bái hoàng đế và coi đó là lối sống theo kiểu La Mã. Có thể nói, đóng thuế là một trong các vấn đề đưa đến cuộc nổi dậy kết thúc bằng việc thành Giêrusalem bị phá huỷ năm 70. Thành thử, với người Do thái, đóng thuế là việc tựa hồ như thờ bái ngẫu thần vậy.

Trong cuộc đời công khai của Ngài, Đức Giêsu tỏ cho mọi người thấy lối sống khác kiểu của La Mã. Và, đây là lối sống tỏ bày sự chống đối đám thực dân này. Với Ngài, cuộc sống phải đặt nền tảng trên công bình chính trực với hết mọi người. Công bình và chính trực, khiến Cha Ngài và là Chúa của người Do thái luôn tôn trọng con người. Thiên Chúa là Đấng thiết lập giao ước với con người, bởi thế nên giữa họ sẽ không còn người nghèo, hoặc kẻ hèn nào hết.

Khi Đức Giêsu nói Nước của Thiên Chúa đã đến, thì người La Mã hiểu ngay điều Ngài muốn nói. Ngài nói thế, tức: vương quyền của Xê-Da đã đến hồi kết cuộc. Người La Mã nghe vậy đều coi đó như một bội phản rất trời long đất lở. Và, họ giết Ngài là vì thế. Nhưng Đức Giêsu tin là Thiên Chúa vẫn ở với người thua cuộc. Và Chúa đã bắt tay vào việc giùm giúp hỗ trợ kẻ đau khổ về sự bất công do người La Mã và các kẻ nịnh bợ họ đem lại. Thiên Chúa dọn sạch thế giới. Ngài làm bật gốc mọi bạo động và nhờ đó, đem lại cho con dân Ngài cuộc sống an bình, dễ chịu. Ngài có chương trình khác hẳn vua quan La Mã. Không nhất thiết phải chiến thắng về binh bị, mới có thể tạo được an bình. Nhưng, tiên vàn phải tạo công bằng trước đã và từ đó an bình sẽ đến sau.

Về việc đóng thuế cho vua quan La Mã, đó không là trọng trách của dân con người Do thái. Mà là, vấn đề tôn giáo cũng như công bằng chính trực rất đậm sâu. Đức Giêsu đi thẳng vào trục vấn đề, bằng cách đòi xem hình vẽ trên đồng tiền quan. Tiền này, ai cũng có sẵn ở trong người, còn Ngài thì không. Bởi thế, Ngài mới hỏi họ là: hình của ai khắc trên đó, họ mới nói: quan tiền nào cũng mang hình tượng của Xê-Da. Và, Ngài bảo: “Vậy, các ông hãy đem trả cho Xê-Da, vì chính ông ta sở hữu nó”. Câu trả lời của Ngài mang ý nghĩa của động thái bước ra khỏi cung cách phụng thờ phục vụ để chỉ chấp nhận lý lẽ của thuế má, mà thôi.

Và Ngài tiếp: “Hãy trả lại cho Chúa, những gì thuộc về Ngài.” Điều này xác nhận một chân lý lâu nay vẫn sáng tỏ với mọi người, đó là: hình ảnh Thiên Chúa đã được ghi khắc nơi tâm khảm của mọi người, ngay khi họ được Giavê Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng hôm ấy, thật sự Chúa không có ý ám chỉ về việc ấy mà Ngài chỉ muốn nói: Thiên Chúa, theo luật Torah, đã ngăn cấm loài người tạc hình tạc tượng của chính Ngài. Điều này cũng rất đúng, nhưng không phải là ý Chúa muốn biểu tỏ vào hôm đó.

Ý nghĩa của câu Chúa nói không nằm trong bản Kinh thánh 70, tức: Chúa chỉ muốn bảo: thuộc về Ngài, là đám người nghèo hèn, những kẻ bị nhóm quan quyền thân La Mã chèn ép, hạ bệ. Hãy cho họ một cơ hội để có thể tự vươn lên. Hãy trả lại cho họ sự cộng chính, bình an, vốn là quyền của họ, trước mặt Thiên Chúa, cho dù họ có bị chính người La Mã và đám giáo gian nịnh hót luôn thử thách, coi thường. Với Đức Giêsu, đây mới là tôn giáo đích thực. Ngài vẫn nói lên sự thật ấy dù có bị người La Mã bắt giam và xử tệ trên khổ giá.

Đọc trình thuật hôm nay không phải để kể cho nhau nghe về đế quốc La Mã dù hào hùng. Bởi, đế quốc nào mà chẳng chèn ép bắt bớ dân con nghèo hèn, ở bên dưới. Thật buồn thay, khi ta thấy “các nền văn minh hôm nay vẫn tự cho mình là sáng giá” đều quay về với thể chế rất chèn ép, thống trị hệt một phường như lịch sử thường minh chứng.

Tác giả Dominic Crossan dùng cụm từ “về với cảnh tượng rất thường ngày” để tả về trạng thái của người Do thái. Thánh Phaolô lại nghĩ về nền văn minh “tai tiếng” thời đế chế Augustus và bạo chúa Nêrô sẽ cứ thế tràn về, nếu không ai cản ngăn bước chân bạo tàn của đám người ấy. Hôm nay đây, đế quốc phương Tây cũng sắp hàng dài chạy theo cùng một kiểu cách như thế. Đế quốc phương Tây xưa nay gồm từ Hy Lạp, cho chí La Mã, Anh quốc ở thế kỷ 18, 19 và Hoa Kỳ ở thế kỷ thứ 20, và tương lai có thể sẽ là Vaticăng của chúng ta cũng chưa biết chừng, nếu ta không đề cao cảnh giác!

Hệ thống đế chế luôn hứa hẹn hoà bình đến với con dân (như thể loại Pax Romana khi xưa) bằng chiến thắng rất binh bị. Nghĩa là, cũng khởi đầu bằng khổ ải, rồi lại chiến tranh tàn phá, kết cục bằng những động thái dương oai đắc thắng, tức: những động thái rất chễm chệ, ăn trên ngồi chốc của kẻ đắc thắng đi từ hệ cấp dũng mãnh uy lực, thứ hoà bình của kẻ chiến thắng có sự hỗ trợ của Aenaeas Mars Ultor, rồi cả Nữ thần Rôma và thần Sung Mãn, cứ thế mà sinh sản. Qui luật họ đưa ra, được viết trên đá cẩm thạch. Văn minh họ khởi xướng gồm cả chế độ cha chú, chủ trương duy trì nô lệ. Lối sống của họ tuy mang dáng dấp rất tôn giáo, có toà án lẫn bàn thờ, vẫn cứ tôn sùng con người là hoàng đế lẫn vua quan, lãnh chúa.

Chủ trương đế chế, nay được sử dụng như cụm từ để diễn tả một thế giới vẫn kéo dài sự thống trị mãi cho đến thế kỷ 20. Hôm nay, tệ hại hơn lại có chủ nghĩa toàn trị và khủng bố. Và, có thay đổi chăng, thì cũng chỉ thay và đổi cung cách cũng như kỹ năng sử dụng bạo lực bằng kỹ thuật thật tinh xảo hơn thôi. Với khí giới giết người hàng loạt mà chưa một đế quốc nào xưa nay từng nghĩ tới.

An nhàn và bình yên đã trở thành ngôn từ khó hiểu, rất nhiều nghĩa. Đối với ta, đôi khi còn trở nên trống rỗng. Dominic Crossan gọi đó là: ”Hoà bình trở nên thứ hàng trang trí ta treo lủng lẳng ở trên cây thế giới vào mỗi năm. Ta sẽ chỉ mang nó đi, theo cung cách của lịch sử mà thôi.”

Đức Giêsu khẳng định: “Bình an đến với anh em”. Bình an, Ta gửi đến với anh em là sự an bình Chúa hứa ban. Nhưng, Ta chỉ ban bình an ấy hoặc để lại bình an ấy cho mọi người, trừ phi anh em thực thi công bình của Chúa, đối với nhau. Đặc biệt hơn, là những người lâu nay bị chèn ép, bị khống chế tồi tệ, không ngóc đầu lên nổi vì thể chế thống trị đầy áp bức của cái-gọi-là văn minh, tân tiến ở mọi thời. May thay, Đức Giêsu kịp giải thoát ta khỏi chốn bi ai, trầm thống rất bất công. Để, ta về với nhau sống hài hoà, bình an, thương mến.

Trong nhận thức về sự giải thoát của Đức Chúa, ta lại ngâm lên lời thơ tuy rất khổ:

“Trông thấy ra, cả cõi đời kinh hãi.

Giòng sông con nép cạnh núi biên thuỳ.

Đuờng châu thành quằn quại dưới chân đi,

Xao động hết loài cỏ hoa đồng nội.”

(Đinh Hùng – Bài Ca Man Rợ)

Nay hết rồi, một bài ca man rợ ấy. Dù, đã kéo dài nhiều thế kỷ. Bởi, Đức Chúa Nhân Hiền kịp kéo ta về với hoà bình và công chính, Ngài hứa ban. Nhận ra thế, ta sẽ dâng lời cảm kích biết ơn hoài. Sẽ thương hoài ngàn năm, nay là thế.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh.

Mai Tá luợc dịch.

Saturday 1 October 2011

“Lấy đâu xe cưới ngời hoa trắng?”

Suy niệm Chúa Nhật thứ 28 thường niên năm A 9.10.2011

“Lấy đâu xe cưới ngời hoa trắng?”

“với những mâm cau phủ lụa điều?”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Mt 22: 1-14

Xe cưới ngời hoa trắng, nào thấy ai bước vào. Mâm cau phủ lụa điều, người dự nào thấy vui. Không vào dự, là nỗi niềm của dân con ngưòi Do thái đuợc kể ở trình thuật, rất hôm nay.

Trình thuật, nay thánh sử kể một loạt 4 dụ ngôn: có truyện của hai người con hành xử rất khác biệt. Có, tá điền quái ác giết cả Chủ Vườn. Nay, đến tiệc cưới được mời cũng không người đến dự. Dụ ngôn nào, cũng biểu tỏ một bài học bóng bảy về luân lý. Và, dụ ngôn cũng biểu lộ phong thái phóng khoáng của Chủ Tiệc. Bởi thế nên, ta đừng hiểu ý/lời ở truyện kể theo nghĩa rất đen. Nhất là khi Vua quan sai quân hầu quở trách đám thực khách, xong rồi còn tống họ vào chốn tối tăm khóc lóc vì “áo xống” không đúng qui cách.

Hãy nên xét kỹ dụng ý mà người kể muốn con dân hiểu rõ khi đọc truyện. Truyện dụ ngôn, còn trưng “lời mời” Chủ tiệc cho gửi đi rất sớm để người được mời kịp mà nhận lời đến dự theo đúng ‘nguyên tắc’ mà người Do thái vẫn có. Nguyên tắc đây, là thói quen lịch thiệp mà Chủ tiệc muốn khích lệ mọi người hãy nhanh chóng nhận lời mời. Nhận lời, mà xử thế hệt như thể người bệnh đến gặp bác sĩ chuyên khoa như đã hẹn.

Nhận lời mời ở đây, là hành động cần thực hiện nhất thứ là khi Chủ tiệc lại là Vua quan quyền thế chốn gian trần muốn dân con mình vui hưởng an lạc. Nhận lời mời, không chỉ cổ võ người được mời tìm chốn an vui mừng lễ. Nhưng, còn để diễn bày lệnh truyền từ Chủ tiệc. Bởi thế nên, dân con nào từ chối lời mời của vua quan Chủ yến tiệc chắc chắn là hành động có ý bạo phản. Như thế, hậu quả sẽ nghiêm trọng.

Cũng may là ở dụ ngôn, người được mời chỉ là phó thường dân hiền hoà vẫn cư xử theo qui cách của xã hội thời bấy giờ. Họ, là đám dân dã luôn thực hiện công tác xã hội theo qui cách chân phương, hiền lành. Tuy nhiên, ở trình thuật, người khuớc từ lời mời đến dự tiệc không giải thích lý do tại sao mình từ chối. Lại cũng chẳng đưa ra lời cáo lỗi nào, như khuôn phép mà người lịch sự vẫn hay làm.

Làm như thế, là bởi vì: họ vốn là những người suốt ngày “bận rộn” với đủ thứ công việc, không thể dự đến dự tiệc như lòng mong muốn. Có thể là, họ bận vui chơi. Bận trông nom con cái. Bận dọn dẹp nhà cửa. Nấu nướng; hoặc trả biên lai tiền điện/nước, cắt cỏ, bởi thế nên không coi chuyện dự tiệc là việc ưu tiên “cần làm ngay”. Thời buổi này, người người thường lấy lý do sinh kế, hoặc chăm sóc gia đình để thoái thác mọi lời mời. Cũng may, trình thuật không coi việc nhận lời ở đây chuyện “cần làm” ngay tức thì.

Tuy nhiên, Vua quan lại coi việc khước từ lời mời dự tiệc là hành xử khiếm lễ, nên đã sai quân hầu đi khắp chốn mời cho hết mọi người tốt/xấu, để thay thế. Giới thẩm quyền người Do thái xưa không cho phép những ai có vấn đề tâm thần hoặc tật bệnh đến hội đường. Cả những kẻ lôi thôi quần áo không chỉnh, cũng như đám người hôi hám, bẩn dơ được phép xuất hiện chốn liên hoan, tế tự. Bởi vào thời đó, làm gì ra có chương trình thanh lọc, rà soát, dõi theo như bây giờ!

Đọc đến đây, hẳn có người sẽ đưa ra thắc mắc về ý của người viết trình thuật là gì?

Quả là, trình thuật muốn đem đến cho người đọc một số các điểm chính mà tác giả muốn nói đến. Đó, là lược sử quá trình ơn cứu độ gửi đến với dân con mọi người. Vua quan là chính Chúa. Người được mời là dân Do thái. Sứ giả là các ngôn sứ. Người Con là Đức Giêsu. “Thành bị phá huỷ” là Đền thờ Giêrusalem bị sụp đổ -hồi năm 70 khi thánh Mát-thêu viết trình thuật này. Mọi chi tiết trong trình thuật là vấn đề tranh cãi khá nghiêm trọng trong cộng đoàn Mát-thêu vào thời đó. Lúc mọi người đều thấy bối rối không biết rằng kế hoạch cứu độ của Chúa thực sự diễn tiến như thế nào.

Đoạn cuối trình thuật tiếp tục câu truyện dụ ngôn về “áo xống” mặc ở tiệc cưới. Có vị đến dự lại chẳng ăn vận cho phải phép. Dụ ngôn không nói những người đến dự có được ban phát “áo xống” này hay không. Chủ Tiệc có cung cấp cho họ không. Chắc chắn là không! Thiên Chúa là Chủ tiệc có khi nào lại ấn định luật lệ về “áo xống” như thế?

Về với thư của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côlôsê trong đó có đoạn ghi: “Theo tư cách là thánh được Thiên Chúa chọn và yêu mến, anh em hãy mặc lấy lòng lân mẫn, chạnh thương, đức nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng...” (Cô 3: 12). Mỗi lần nói đến tín hữu đã được thanh tẩy, thánh Phaolô vẫn cứ bảo: Hãy mặc lấy Đức Kitô, như thứ áo xống cần thiết. Xem như thế, đây chính là thứ “áo xống” cần mặc ở tiệc cưới.

“Áo xống”, là thái độ sống trong đời. Là, cung cách người tín hữu Đức Kitô cần có để sống đích thực là con cái Chúa. Cũng có thể, đây là ý chính mà lược sử ơn cứu độ muốn nói đến. Ơn cứu độ, là ơn sản sinh ra con người sống như thế. Dù, họ đến từ đâu. Dù, họ có thuộc về Hội thánh nào, hoặc nhóm hội/đoàn thể nào, cũng thế.

Cuối trình thuật, thánh Mátthêu còn đưa ra cho người đọc một chân lý hiển nhiên được thánh nhân nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì ít.” (22: 14) Ở bản 70 Hy Lạp, đây là câu thơ hạp vận: nhiều người được gọi (kletoi), nhưng được chọn lại ít (ekletoi). Danh từ thần học của ta có cụm từ “chiết trung”. Người có tính “chiết trung” là người không phù hợp với mẫu mực đời sống ở quanh mình. Là, người mặc lấy cho mình thái độ sống từ nhiều nơi khác.

Thánh Phaolô nói với những người hồi hướng trở về với cộng đoàn Hội thánh rằng họ là những người thực sự được chọn, nên phải sống đúng thực với quà tặng “nhưng-không” đặc biệt ấy. Thánh Mátthêu viết theo cung cách khác. Thánh nhân yêu cầu người đọc thực hiện lối sống đảm bảo họ là dân được chọn và được tặng ban đường lối sống khác biệt. Thánh nhân khích lệ người đọc tỏ ra mình khác biệt, vì được gọi theo cung cách mình là người của Chúa. Thánh nhân không tìm cách khiến họ lo sợ qua con số thống kê hoặc tỷ lệ những người được cứu. Thánh nhân hoàn toàn lạc quan về chuyện này.

Vấn đề là nay ta tự hỏi: ta làm gì được với dụ ngôn và chân lý ấy. Lệnh truyền: “Hãy đi ra các ngã đường…" (Mt 22: 9) làm người đọc nhớ đến câu nói của thánh Phaolô, khi thánh nhân rời Tiểu Á qua ngõ nhỏ để đi Châu Âu. Thị trấn đầu tiên thánh nhân đặt chân tới, là thị trấn Philiphê. Philiphê, một “ngã đường” trên chính lộ được mọi người biết. Thánh Phaolô cũng được gửi đi tới đó. Thoạt khi vừa đặt chân lên nơi đó, thánh Phaolô biết ngay là dân chúng nay chán ngấy cuộc sống dưới trướng của đế quốc La Mã. Và, họ cũng muốn về với Giavê Chúa của người Do thái, nhưng lại không muốn dấn bước trở thành người như họ. Thành thử, ta gọi họ là những người ‘rất chung chung’ luôn kiếm tìm. Những người rất “chiết trung”, được ghi nhận. Và, thánh Phaolô kêu mời họ để đưa về với tiệc Lời Chúa cũng là tiệc Thánh Thể.

Vấn đề là: ngày nay đâu là giao lộ để ta đi? Ai là người rất “chiết trung” của ta?

Thiết tưởng, họ vẫn là người luôn ưa chuộng lòng hào hiệp/chính trực hơn tôn giáo lớp lang, qui củ. Họ nhận ra rằng: sự xấu tự nó cũng bén rễ sâu như lòng hào hiệp. Và, họ cũng là người thấy được rằng chính lòng hào hiệp sẽ phá đổ được sự xấu để tiến tới. Họ, còn là người nhận thức biết rằng hư vô, lố bịch và cả đến cái chết cũng không là yếu tố nói lên được lời cuối cùng cho bất cứ một ai. Là người nhận ra hương vị của hạnh phúc, nhưng họ lại đánh mất hạnh phúc làm nơi nương náu.

Những người như họ cũng biết chiêm ngưỡng/thán phục sự tốt đẹp lành thánh mà vui hưởng. Họ vẫn mong chờ mọi sự tốt đẹp đến với mình và khao khát đạt điều tốt đẹp như thế. Là, người kiếm tìm đất sống tốt đẹp mà không có sự khuynh loát, chiếm đoạt. Nơi, mà mọi người có tự do trở thành người tốt lành, biết yêu thương, giùm giúp hết mọi người.

Tuyệt diệu thay, khi ta và mọi người đều nhân danh Chúa mà ra giao lộ để kiếm tìm mọi người và mọi sự tốt lành. Kiếm và tìm, để rồi sẽ đưa những người chiết trung mà mình vừa gặp mặt, được về với cộng đoàn tình thương, rất tốt lành, chuyên chăm lo, giùm giúp. Nếu được thế, cộng đoàn dân Chúa sẽ là Tiệc Cưới tuyệt diệu. Tiệc Thánh Thể đích thực, đúng ý của Chủ Tiệc vẫn mong đợi mọi người dự.

Trong tâm tình đó, cũng đề nghị mọi người ngâm tiếp vần thơ còn để ngỏ. Ngâm rằng:

“Chiều nay…thương nhớ nhất chiều nay,

Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy.

Tôi uống cả em và uống cả

một trời quan tái, uống cho say.”

(Nguyễn Bính – Một Trời Quan Tái)

Trời Quan Tái, là cõi trời mở ngỏ với mọi người. Trời Quan Tái, nay là cộng đoàn Nước Trời ở nơi đó ta vẫn sống mà uống cho say tình thương yêu tuyệt diệu, tốt lành. Rất Thánh Thể.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh - Mai Tá lược dịch.