Wednesday 22 May 2019

“Khi em chết, cõi đời này phải hết,”


Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên năm C 02/6/2019

Lc 24: 46-53

Khi ấy Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói:

"Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. "Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống."

Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

“Khi em chết, cõi đời này phải hết,”
 “Không chỉ tôi, hoa cỏ cũng lên trời.”
(dẫn từ thơ Du Tử Lê)

Đúng là như thế. Em có chết cõi đời này, rày cũng hết. Hết một thời. Hết một đời người. Thế nhưng em và tôi, ta sẽ cùng Chúa bay về cõi “trời cao” có Chúa có Cha, có Thần Khí Chúa ngự trị, như thánh Luca mô tả, ở trình thuật.


Trình thuật thánh Luca, nay cho thấy: Chúa từ biệt mọi người để rồi Ngài cất bước ra về chốn thiên cung, ngàn năm hân hoan phấn khởi, rồi Ngài sẽ gửi Thần Khí đến với mọi người. (Lc 24: 53). Và, sự việc Chúa thăng hoa về chốn thiên cung/thiên đường theo dạng thức đặc biệt, đã trở thành vấn đề với một số người.


Vấn đề là, Kinh sách Do-thái nói rất ít việc Chúa “thăng hoa” về cõi ấy, đến độ gây kinh ngạc. Trình thuật Ênốch và Êlya tuy cũng đề cập đến sự việc này nhưng không được đón nhận vì các thánh không trở về với ta, mà về chốn miền Chúa ngự trị, từ đó đem sứ điệp kiểu Môsê từ Si-nai bước xuống. Tóm lại, các tiên tri Cựu ước tuy có thị kiến thấy Chúa nhưng không “thăng hoa” về cõi “trời cao” có Chúa. Và chốn ấy, chẳng là thiên cung/thiên đường hiểu theo nghĩa thông thường, rất địa lý.


Sách Công Vụ lại mô tả vầng mây xám/trắng bao trùm Chúa và cất nhắc Ngài khỏi tầm nhìn của mọi người. Thế nên, thật không chắc tác giả Kinh Sách có diễn tả điều này theo nghĩa đen của từ vựng, hay không? Hoặc ngược lại, chỉ mang ý nghĩa biểu tượng/đặc trưng, thôi. Thế nên, người thời nay vẫn tự hỏi: Thiên đường là sao? Có nghĩa gì? Ở đâu thế? Làm thế nào đến được chốn ấy?


Ngày nay, nhiều người những muốn ra khỏi “thung lũng sầu” đầy khóc than, hầu đạt chốn linh thiêng mang tên “thiên quốc” mà gần gũi Chúa, không còn bị thế giới gian trần phiền hà, quấy nhiễu. Có người lại cứ đặt tên “thiên đường” cho chốn linh thiêng/thần thánh ở nơi đó không còn rắc rối với chuyện âu sầu, khổ não ở trần thế. Cũng có vị những muốn hỏi: Chúa về Trời, Ngài có bỏ lại đằng sau mọi âu sầu rối rắm, để dân gian phải gánh chịu?


Nhiều đấng bậc mô phạm/đạo mạo lại suy nghĩ: bằng vào việc vinh thăng chốn miền thiên quốc, Chúa đã ôm trọn loài người vào với cuộc sống của Ngài. Loài người chúng ta, đầy rẫy những tang thương/bệnh tật thật tù túng trong cõi ngục, lại được Chúa ôm ấp chữa trị đem vào chốn vinh quang. Và, Ngài đón nhận mọi người vào cung lòng tình thương của Ngài, ở cõi ấy, Ngài có khả năng giúp Chúa Cha nghe tiếng khẩn thiết/van nài của người phàm, phải chăng đó là sự việc cốt để Ngài thăng hoa hãnh tiến mọi sự lên với Chúa?


Thăng Thiên không kể nhiều về Đức Chúa ngang qua các sự kiện diễn tiến từ ngày Chúa Phục sinh/trỗi dậy, nhưng lại kể nhiều về chính chúng ta. Kể rằng: nếu Chúa đi vào với vũ trụ của Ngài, thì rồi ra, ta cũng sẽ đi vào chốn ấy, với Ngài. Được như thế, tức: được cất nhắc với Ngài đi vào vũ trụ thánh thiêng, mang theo mình tất cả mọi khó khăn cũng như giới hạn của chính mình. Vào chốn thánh thiêng ấy, ta được Chúa đón chào như người thuộc cõi ấy. Một khi Ngài đã hoàn tất sự việc giúp Cha hiện diện giữa mọi người, Chúa cũng giúp ta sống chân thực như người của Chúa trong thế giới của Ngài. Và cũng thế, ta sẽ lấp đầy mọi sự ở trong Chúa, trong Cha trong Thần Khí Ngài nữa.        


Thăng Thiên, là cốt để Chúa rời bỏ nơi đây/chốn này mà đi vào “cõi trời cao nơi ấy” để ta khởi sự thực hiện sứ vụ Ngài giao phó. Bởi, nếu Ngài cứ quanh quất bên ta, hẳn là ta lại sẽ tìm mọi cách bỏ cả cuộc đời mình ra chỉ để thờ phượng Ngài trong nguyện cầu, thay vì nghe lời Ngài dạy mà ra đi thực hiện sứ vụ rao truyền Tin Vui An Bình cho mọi người. Thăng Thiên, là “bật đèn xanh” để biến sứ vụ giảng rao Tin Vui An Bình thành hiện thực, theo nghĩa rất thật.  


Thăng Thiên thời Chúa sống, cũng na ná giống truyện hoàng đế La Mã, vẫn làm thế. Nhưng, nghiêm chỉnh hơn nên nói: Thăng Thiên phải được hiểu theo nghĩa Phục Sinh, tức: Chúa trổi dậy từ mộ phần trống vắng, để rồi Ngài đi vào chốn thiên cung đích điểm nơi Ngài hoàn thành công cuộc cứu độ, sau khi đã rời bỏ điểm xuất phát ở trần thế. Thăng Thiên, còn có đối tác là sự việc chôn cất Chúa; tức: Ngài xuống tận cùng vào chốn hư vô/trống rỗng nay đà trỗi dậy để đi vào nơi đầy ắp nhgững huyền nhiệm của tình thương, theo tầm nhìn cũng rất khác.    


Thăng Thiên, là việc bổ sung cho Phục Sinh quang vinh. Bổ sung/thay thế những gì tiêu cực bằng sự thể tích cực. Bởi, từ ngày Chúa Phục sinh/trỗi dậy, cuộc sống con người đã trở nên tốt đẹp hơn trước rất nhiều. Những gì tiêu cực nay đà ra đi, biến dạng. Biến mất dạng, sau khi đã khiến cuộc đời mình trở thành hư vô/trống rỗng, để rồi khám phá ra rằng: làm như thế, tức là ta đặt mình trong vòng tay ôm của Thiên Chúa, và được Ngài cất nhắc về với “cõi trên” có Chúa có Cha, có cả những sự kiện mình chưa từng cảm nghiệm. Phải chăng đó mới là thiên cung/thiên đường không nơi chốn đích thực?  


Thăng Thiên-Phục Sinh, không thay thế việc đi xuống theo nghĩa tiêu cực, thẳm sâu; nhưng là khía cạnh huyền nhiệm về những gì xảy đến để mọi người trở thành hư vô/trống rỗng rất cần thiết? Có thể nói, cuộc sống đích thật không là sự việc “đi lên” hoặc thăng hoa diễn tiến sau khi đã lấp đầy hoặc thay thế nhiều chuyện “xuống thấp”. Có thể nói, một khi đã xuống thật thấp ta lại khám phá ra rằng: lên cao/xuống thấp, lúc trầm/lúc bổng, chính là tên gọi của thực tại.


Buổi Tạ Từ ngày Thứ Năm Thánh, Đức Giêsu đã đi vào tình trạng ý thức có Chúa ở cùng và ở với Ngài. Thứ Sáu Chịu Nạn, Ngài lại đã chết trong sự “tỉnh táo đầy ý thức” của Thiên Chúa. Vào đêm Vọng Phục Sinh, Đức Chúa lại đã đi vào vũ trụ trần gian nơi đó không có ai và cũng chẳng có thần thánh nào hoặc thứ gì xuất hiện ngoài Đức Chúa. Chính đó mới là thiên đường, đúng thật thiên quốc. 


Ta đạt chốn thiên đường/thiên quốc không bằng sự việc bay bổng lên “chốn cao sang” sau khi đã trúng giải “độc đắc” nào đó, hoặc vào lúc mình chán ngấy sống ở “cõi dưới”. Ta đạt được chốn ấy, chỉ vì đã xuống thật thấp vào cõi hư vô/trống trải và vì thế mới được nâng nhấc vào “chốn” ấy để có được cuộc sống hư không/ trống rỗng chẳng còn gì, mãi thiên thu. Như thế thì, đạt chốn thiên đường/thiên quốc phải chăng ta có nhiều cuộc “đi lên” hơn “xuống thấp”? Không hẳn thế. Sống ở tình huống rất “thiên đường” như thế, ta sẽ chẳng còn “lên xuống” chốn nào nữa. Chắc chắn sẽ không đi xuống, cũng chẳng thăng lên nơi nào khác, nữa.     


Đúng ra, ta nên hiểu: nhiều phần chắc chắn là: khi ta vượt quá lý luận về thiên đường/thiên quốc, và khi ta không còn ngôn từ nào dùng cho đúng cách, là ta đã gần đến với những gì mà ta gọi là Thần Khí. Thần Khí Chúa giải phóng ta khỏi tình trạng bám víu, níu kéo bất cứ ai, sự vật gì, dù đó có là thần linh thánh ái nào đi nữa. Và ở chốn thiên đường/thiên quốc, ta được tự do sống ở bất cứ nơi đâu, hết mọi chỗ. Và đó chính là sự việc Thần Khí đã khiến Chúa Thăng Thiên. Bởi, Thăng Thiên là Chúa hiện diện trong Thần Khí. Và, Ngài là Đấng ở khắp mọi nơi, nơi nào có sự hiện diện của Thần Khí. Điều tuyệt diệu, là: ta nhận được quà tặng Thần Khi rất như thế, vào lễ Ngũ Tuần. Và, Thăng Thiên lại dẫn đưa ta vào với lễ hội của Thần Khí, rất Ngũ Tuần. 

 
Thần học cổ kính rất kinh điển nhìn sự việc Chúa chết đi và sống lại theo mẫu mã của việc đi ra ngoài rồi trở về lại. Đi ra ngoài, là ra khỏi chốn thiên đường/thiên quốc hoặc bất cứ nơi nào đó có Chúa có Cha, để rồi Ngài đến với ta, qua nhập thể. Và bằng vào việc này, Ngài lại đã chăm sóc ta bằng sự sống, nỗi chết và sự sống lại. Và sau đó, Ngài sẽ trở về chốn cũ của Ngài, tức thiên đường/thiên quốc của Thiên Chúa. Người xưa gọi đó là tiến trình “xuất dương trở về lại”, rất kinh điển.


Dù đó có là mẫu mã tuyệt vời giúp ta hiểu rõ nhiệm tích của lễ Thăng Thiên, thì ngày nay, ta lại tư duy/suy nghĩ việc Chúa chỉ dẫn phương hướng mình ra phía ngoài và phía trước theo kiểu xoắn ốc. Ngài hướng về khắp chốn, vào bất cứ mọi lúc theo cung cách rất riêng của Ngài, hay sao ấy. 


Từ đó, ta có được cảm nghiệm, rằng: khi chùm mây bao phủ Ngài, thì Ngài không di chuyển theo đường thẳng tắp, để ta nối gót, nhưng Ngài vẫn để ta chọn lựa, khi thời “thăng hoa diễn tiến” về với Ngài kịp đến, thì kiểu cách ta chọn lựa có thể là kiểu “xoắn ốc” bao gộp Ngài cùng tất cả mọi người mà vui hưởng một thăng thiên về chốn thiên đường/thiên quốc, rất tuyệt vời.


Trong cảm nghiệm tình huống kịp đến như thế, ta lại hân hoan ngâm lên lời thơ vui mà rằng:


“Khi em chết, đời này phải hết.
Không chỉ tôi, hoa cỏ cũng lên trời.”
(Du Tử Lê – Hiến Chương Yêu)


Đời này phải hết, không chỉ là cõi chết. Mà, là cảm nghiệm của anh, của tôi của hoa cỏ vạn vật sẽ lên trời hân hoan vui hưởng “Hiến Chương Yêu” tuyệt vời, Chúa gửi đến. Cho muôn người.     

Lm Kevin O’Shea, CSsR – Mai Tá lược dịch
_____________________________________________________________________________________________________________

Tuesday 14 May 2019

“Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt,"


Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 5 Phục Sinh năm C 19/5/2019

Ga 14: 23-29

Đức Giêsu đáp: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em.26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: "Thầy ra đi và đến cùng anh em". Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.

“Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt,"
“Ngó như gần nhưng vẫn thiệt xa khơi.”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Ngày cách biệt, dù biết trước vẫn thiệt xa khơi. Ngày đó, là ngày Chúa ra đi về với Cha để rồi Ngài sẽ gửi Thánh Thần Ngài đến với muôn người. Tâm tình này, thánh Gioan nay ghi ở trình thuật gồm tóm trong ý nghĩa: “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, như Chúng Ta là Một…” (Ga 17: 21)

Tin Mừng Tình Chúa “Có Cha ở trong Con”, chan hoà cùng Thần Khí, cứ kéo dài mãi đến ngày Chúa về trời, hẳn ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng, từng chi tiết cả sự việc Chúa xuất hiện với các kẻ tin Ngài.

Hội thánh thời tiên khởi, đã thấy xuất hiện rất sớm chứng nhân nổi bật là thánh Phaolô tông đồ. Thánh-nhân không rành rẽ về truyền thống cũ xưa, nhưng vẫn có khả năng đưa ra chứng cứ về tư cách “nên Một” có “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.” Thánh Phaolô biết rất rõ tiến trình duy nhất Chúa Phục sinh/trỗi dậy để rồi Ngài đi vào với vinh quang Nước Trời. Với thánh Phaolô, thì Phục Sinh - Thăng Thiên diễn ra chỉ một lần. Nói cách khác, đó là hai khía cạnh của cùng một nhiệm tích rất Đức Chúa. 

Với thánh Phaolô, Thân mình Chúa đã biến dạng ngay lúc Ngài trỗi dậy và đã trở thành Thân Mình Linh thiêng rất Thánh ái. Chứng cứ mà thánh-nhân đưa ra đã bắt đầu từ ngày thánh-nhân trải-nghiệm thị-kiến trỗi dậy trên đường đi Đamát. Thánh-nhân nói rất rõ: thị kiến mình trải nghiệm chính là thị kiến trỗi dậy và coi đó là chứng cứ về sự kiện “Chúa nên một”, thời rất sớm. 

Ngay với thị kiến Đamát, không có ai hiện diện để nghe hoặc chứng kiến sự việc tận mắt như bằng chứng nhãn tiền. Tức, không có dân gian quần chúng hiện diện để sẻ san như nền tảng khách quan, mà là thị kiến đơn thuần. Tuy nhiên, nói thế không có ý bảo rằng sự việc này không có thật hoặc là sự thật rất thực, nhưng đã hiện hữu như sự kiện lịch sử rất khách quan.

Là nhân chứng xuất hiện sau thánh Phaolô, nhưng sống trước thời điểm thánh Mátthêu và Luca viết Tin Mừng, thánh Máccô không viết điều gì có liên quan đến sự việc Chúa Phục Sinh hiện ra. Và, thánh Máccô kết thúc Tin Mừng do mình chép có đính kèm một thông điệp xác định là Chúa đang trên đường ra đi đến với Galilê, trước đồ đệ. Và, chính tại nơi này, các thánh tông đồ sẽ được gặp Thày, chợt hiện đến. Ngay cả sứ giả “áo trắng” xuất hiện ở mộ phần, cũng căn dặn các nữ phụ hãy nhắc bảo tông đồ Chúa đi về phía Galilê ở đó sẽ có Thày hiện đến, để gặp gỡ.  

            Người đọc Tin Mừng hẳn cũng đều biết: thánh Mác-cô kết thúc Tin Mừng bằng trình thuật cuối này. Như thế tức là: với thánh Máccô, rõ ràng chỉ xảy ra duy nhất mỗi sự kiện Chúa hiện đến ở Galilê, thôi. Xem ra như thể thánh Máccô có ý định viết về chuyện hiện ra như thế, nhưng nếu thánh nhân có viết đi nữa, hẳn ta cũng sẽ có được văn bản rõ ràng. 

Thế nhưng, sự thể là: Tin Mừng theo thánh Máccô đã chấm dứt cách đột ngột; và chẳng thấy có trình thuật nào do thánh nhân viết nói về việc Chúa hiện ra ở Galilê hoặc nơi nào khác. Xem như thế, tư tưởng của thánh Máccô cũng không xa ý tưởng mà thánh Phaolô đưa ra. Nhưng, như ta thấy, tư tưởng ấy lại khác xa ý của thánh Mátthêu và Luca.

Thánh Mátthêu kể cho mọi người nghe biết về sự kiện Chúa xuất hiện lần đầu với đồ đệ Ngài, và lần đó là ở Galilê. Và trước đó, thánh sử cũng viết về sự việc Chúa hiện ra với các nữ phụ (trước cả buổi gặp gỡ đồ đệ ở Galilê) nơi mộ phần trống vắng ở Giêrusalem. Và qua trình thuật này, Chúa cũng yêu cầu các chị hãy về nhắn với đồ đệ là hãy đi Galilê để được Chúa hiện ra.

Thánh Luca thì khác. Thánh-sử kể một loạt những lần Chúa hiện đến với đồ đệ trong tình cảnh thật rất khác và khó mà đếm được là bao nhiêu. Nhưng, tất cả đều diễn ra ở Giệrusalem chứ không phải ở Galilê. Và Thăng Thiên được thánh-nhân tả như Chúa hiện ra một lần cuối.

Sau thánh Phaolô và Máccô, truyền thống Giáo hội đã từ từ kể về những lần Chúa hiện ra suốt từ Phục Sinh cho đến ngày Ngài Thăng Thiên về Trời. Xem thế thì, ta có 40 ngày diễn tiến sự việc Chúa hiện diện với con dân đồ đệ. Truyền thống Giáo hội ta vẫn nghe quen, đã trở thành sự việc được mọi người lãnh nhận như sự thật, độc đáo.

Theo truyền thống được Giáo hội chấp nhận, Đức Giêsu được cất nhắc trở về với mọi người một cách sống động, trước nhất ở địa cầu trần gian và sau đó, Ngài lại được nâng nhấc rất sống động về chốn thiên cung. Xem như thế, ta thấy có tiến trình gồm 2 bước, bước đầu được gọi cách đơn giản  là Phục sinh; và bước kia là sự việc Chúa Thăng Thiên về Trời, với Cha. Mỗi bước Chúa được tả một cách khác biệt. 

Với bước đầu, vào lúc Phục Sinh, Chúa đã sở hữu Thân Mình có sự sống ở mặt đất, giống mọi người. Bước tiếp theo, vào lễ Chúa Thăng Thiên về trời, Thân Mình Ngài biến đổi trở thành Thân Mình Thánh Thiêng có Thần Khí Chúa ở cùng. Và, Ngài có khả năng sống thánh ở thiên quốc.

Truyền thống này, không giống truyền thống đầu; tức: hiểu mọi việc như thánh Phaolô và thánh Máccô hiểu một cách rất sớm sủa. Phải chăng truyền thống này vững chắc hơn truyền thống sau, do thánh Mátthêu và Luca diễn nghĩa? Phải chăng truyền thống sau lại quan trọng và nắm phần chủ chốt để trở thành thánh-truyền, như Hội thánh phán?

Đối với ta, điều quan trọng là nhận ra rằng: thị kiến/viễn cảnh, là chuyện thông thường được nhiều tôn giáo trải nghiệm. Đó là tình trạng, mà ngày nay khoa học gọi là trạng thái thôi miên, trong đó người được thị kiến rất kinh ngạc, hãi sợ và vui mừng. Đó là nền tảng tốt cho niềm tin hơn coi đó như chứng cứ thực nghiệm, chút nào hết.

Đức Giêsu cũng cảm nghiệm nhiều thị kiến khá đáng kể, như vào lúc Ngài nhận thanh tẩy từ thánh Gioan; hoặc, các cảm nghiệm Ngài từng có vào những ngày Ngài sống ở sa mạc cũng như cảm nghiệm khác khi Ngài biến hình trên núi… Tất cả đã được thánh Mátthêu và Luca ghi chép trong Tin Mừng.

            Trong thị kiến, người nhập thị chứng kiến được Thân Mình Thánh Thiêng của Chúa, chứ không phải thân mình được chỉnh sửa cho thích hợp với sự sống, ở thế trần. Các vị nhập cuộc vào thị kiến, chỉ mỗi suy về những gì mình chứng kiến và là đường lối viết Tin Mừng của thánh Luca. Điều mà thánh sử muốn nói lên, đích thực là Thân Mình Thánh Thiêng của Chúa, mà các thánh được diện kiến bằng con mắt tinh thần, mà thôi.

Xem như thế, ta có hai truyền thống tổng cộng. Một, là của thánh Phaolô và Máccô. Còn truyền thống kia, lâu nay được gọi là thánh-truyền, do thánh Mát-thêu và Luca lập ra. Giữa hai truyền thống, không thấy có sự nhất quán, thuần nhất nào hết.

Nhưng truyền thống sau lại đã chuyển đổi trên căn bản nên hơi khác truyền thống đầu, khi dân con Đạo Chúa lại để mất thị kiến của Giáo hội tiên khởi. Từ đó trở đi, ta lại đi tìm các dữ kiện thực nghiệm để củng cố cho điều mình tín thác. Thế nên, các thánh mới kể chuyện: Chúa đi quanh mộ phần trống vắng khiến các nữ phụ lại cứ nhìn ra như thợ làm vườn. Ngài tự mở cửa mồ và Ngài có khả năng ăn uống tựa hồ người bình thường, và còn để cho thánh Tôma sờ chạm vào chân tay. Riêng thánh sử Gioan lại cũng kể về việc Chúa đi đây đó, Ngài hiện ra và diễn giải sự việc cho tông đồ hiểu. 

Chính vì lý do thực nghiệm, mà các thánh sử lại thấy khó là làm sao kể việc Chúa về Trời, nên mới nghĩ ra viễn cảnh Chúa thăng hoa đi vào chốn mù khơi mây khói kiểu con tầu vũ trụ khiến các nhà khoa học ngày nay không làm sao mường tượng cho hợp với định luật vật lý được.

Từ đó, trọng tâm của thị kiến xem ra khá hấp dẫn trên bình diện xã hội. Bởi, nói như thế tức như thể: các thánh lãnh nhận thị kiến lại đã có khả năng sống trong môi trường đặc biệt có vai vế và quyền hành trong hội thánh thời tiên khởi. Và cuối cùng, các văn bản viết về truyền thống sau lại đã hướng thẳng vào cơ cấu cộng đoàn phát triển. Đặc biệt hơn, thánh Luca lại đã mô tả lễ Ngũ Tuần có Thần Khí Chúa đáp là là xuống xã hội nói chung chứ không phải là thị kiến cá thể, riêng rẽ.

Xem thế thì, truyền thống Hội thánh thời sau này, lại đặt nặng tính cộng đoàn dân Chúa có Thần Khí ở với và ở cùng, để củng cố niềm tin và sự sống trong vũ trụ.
Bằng vào cảm nghiệm niềm tin như thế, ta sẽ ngâm lên lời thơ vui vẫn từng hát:

            “Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt,
Ngó như gần, nhưng vẫn thiệt xa khơi.” 
(Hàn Mặc Tử - Trường Tương Tư)
           
Ngó và nhìn, là điều nhà thơ từng làm như đấng bậc trong Hội thánh theo cung cách thị kiến rất thi ca, “xa khơi”, cách biệt. Nhưng truyền thống Hội thánh vẫn giữ lại niềm tin con cái Chúa nay về với Cha ngõ hầu củng cố tình Ngài thương ta rất mực, qua Thần Khí.     

Lm Kevin O’Shea, CSsR –
Mai Tá lược dịch
_____________________________________________________________________________________________________________

Tuesday 7 May 2019

“Ai cũng hiểu, chỉ một người không hiểu,"


Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh năm C 12/5/2019
Ga 10: 27-30
Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Kitô Giêsu. Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm. Như thế, anh em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.

“Ai cũng hiểu, chỉ một người không hiểu,"
“Nên có một gã khờ ngọng nghịu mãi… thành câm.”
(dẫn từ thơ Đỗ Trung Quân)

Vẫn không hiểu và cũng chẳng tin, dù Chúa có nói về chuyện ấy rất nhiều lần. Những lần Ngài nói về chiên đàn, có Chúa chiên được thánh Gioan trình thuật ở Tin Mừng, vẫn rất sáng.

Thánh Gioan hôm nay kể, là kể về một so sánh Chúa ví người Do thái với chiên đàn có Ngài là Chủ Chăn để người người được tặng ban sự sống rất đời đời. So sánh thánh Gioan kể, được đưa vào Tin Mừng Phục Sinh là để tiếp tục chiều hướng có những trình và thuật, qua đó thánh sử nhấn mạnh điều căn bản có liên quan đến mầu nhiệm Vuợt Qua kéo dài mãi hôm nay.

Nhiệm tích Chúa Vượt Qua diễn bày cho mọi người, là sự việc Ngài lướt vượt, trải qua giai đoạn lịch sử trong đó có buổi Tạ Từ, rồi sau đó Chúa chấp nhận cái chết trên thập tự và cuối cùng là sự kiện Chúa hiện diện với các đồ đệ vắng mặt lúc Ngài trút hơi thở phàm trần ở Calvariô.

Ba đoạn đời, Chúa diễn tả ba nhiệm tích cùng một mục tiêu: Ngài gửi Thần Khí đến với mọi người bằng việc chấp-nhận cái chết trên thập-giá và Phục Sinh. Toàn bộ trình thuật thánh Gioan kể, là để kể về lễ hội đỉnh cao mà các truyền thống khác gọi đó là Lễ Ngũ Tuần, tức biến cố Chúa hiện diện nơi mọi người như Chủ Chăn có mặt với chiên đàn, vào mọi lúc.

Cả vào khi Chúa đoan quyết:
“Ta ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ, chúng bị diệt vong, không ai giựt chúng khỏi tay Ta được. Cha, Đấng đã ban cho chúng Ta, lớn lao hơn tất cả mọi sự, và không ai giựt khỏi tay Cha được! Ta và Cha là một.” (Ga 10: 28-30)

Đó là ý-lực chủ-yếu về nhiệm-tích Phục sinh của Chúa Chiên, là Chủ Chăn của mọi người từng kinh qua tháng ngày chấp nhận thống khổ với con người để lướt thắng tất cả và đạt đến sự thật Ngài từng nói:
                       
Ta và Cha là một.”

Đức Chúa Vượt Qua mọi chặng đường, để kết hợp với Chúa Cha trong chuyến trở về mà người thường vẫn gọi là Thăng Thiên. Và, Ngài lại xuất hiện giữa môn đệ trong phòng “khoá trái cửa” vì các thánh “sợ người Do Thái”. Vốn hãi sợ, vì không hiện diện với Thày mình suốt đường trường rong ruổi, nên Thày phải xuất hiện với đồ đệ Ngài bằng thể thức “Trong Thần Khí” và “bằng Thần Khí”, ngay tức thời.

Bởi, “Ngài với Cha là Một” nên Ngài nói với đồ đệ bằng “thì” hiện tại rằng:
Bình An của Chúa ở cùng anh em!”

Đây không là lời chào hỏi bình thường giữa người Do thái thời bấy giờ, nhưng đích thị là khẳng định bảo rằng: “Thày-và-Cha-là-Một” nay gửi Đấng Bình An đến với anh em và mọi người. Với lời đó, Ngài chứng tỏ với đồ đệ bằng cử chỉ mà Ngài từng làm vào buổi Tạ Từ, trong đó Ngài nói rõ:
           
                        “Ta để lại Bình An cho anh em…” (Ga 14: 27)

Ngay khi ấy, dân con Chúa cùng đồ đệ được tràn đầy Bình An, tức Niềm Vui Thần Khí, rất trọn vẹn. Cả vào lúc Chúa đến với đồ đệ khi thánh Tôma ra ngoài vì công tác, đợi đến lúc thánh-nhân trở về, Chúa lại hiện diện giữa đồ đệ, để Ngài thêm lời khẳng định của thánh Tôma qua câu nói:

“Lạy Chúa tôi!
Lạy Thiên Chúa của tôi!”,
tức cùng một hình thức, cũng một thể loại ngôn từ ở đời thường để nói rằng: “Chúa tôi và Thiên Chúa của tôi! đã nên một, đã là một”. Trở nên một và là một, có mang nghĩa thật rõ nét, tức: Thần Khí Chúa ở giữa Cha và Con. Thêm vào đó, cũng tựa như lúc Chúa sai đồ đệ đi khắp nơi rao giảng, Ngài cũng nói:

“Hãy nhận đón Thần Khí của Cha.”

Từ đó, môn đồ Ngài đà hiểu rõ và tin vào nhiệm tích Vượt Qua của Thày là việc mặc-lấy-Sự-Sống-mới ngang qua cái chết là nguồn mạch sự sống; và, sứ vụ rao giảng của các thánh là như thế. Chính đó là Lễ Vượt Qua và cũng là Lễ Hội “Ngũ Tuần” cho các ngài. Chính đó là tình huống và sự thể qua đó thánh Tôma, tuy mang danh là “đấng-thánh-cứng-lòng-tin” cũng được thổi vào người mình theo cùng một kiểu cách nhận đón Thần Khí buổi lễ “Ngũ Tuần” của riêng ông.

Trong bầu khí dọi về cuộc Vượt Qua, Sống Lại và Chúa thổi Thần Khí Ngài đến với tông đồ, thánh Gioan tiếp tục trình thuật bằng đoạn văn cho thấy người Do thái đòi ném đá Chúa có lời đáp của Chúa như:
“Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha giao cho tôi làm; vì lý do nào mà các ông lại đòi ném đá tôi?”

Và họ phản bác:
“Chúng tôi ném đá ông, không vì việc làm tốt đẹp, nhưng vì lời phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa."

Với lời đối đáp ấy, thánh Gioan đã kéo người nghe vào với sự kiện ghi trong Luật, nên đã để Chúa đáp trả thật rất rõ:       
“Trong Lề Luật của các ông, lại đã không chép rằng: "Ta đã bảo: các ngươi là thần. Nếu được gọi là thần, những kẻ có lời Thiên Chúa xảy đến cho họ, thì sao các người đã được Cha tác thánh và sai đến trong thế gian, lại bảo: Ông phạm thượng! vì Ta đã nói: Ta là Con Thiên Chúa?” (Ga 10: 34-36).

Và, cuộc tranh luận phản bác giữa người Do thái và Đức Chúa, cuối cùng đi đến khẳng định do Chúa nói:        
“Còn nếu Ta làm, cho đi các người không tin chính mình Ta, thì hãy tin vào các việc ấy, ngõ hầu các người biết và cầm chắc luôn rằng: Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha.” (Ga 10: 38-39)

Tựu trung, vấn đề là như thế. Như thế, tức: Đức Kitô đã kinh qua nỗi chết và sống lại, như Ngài luôn khẳng định Ngài là Con Chiên Thiên Chúa. Chỉ những người thấp cổ bé họng, bị đẩy ra ngoài lề xã hội, mới được Chúa bênh vực và ở với họ. Cùng với họ, Ngài đã và sẽ còn kinh qua cũng như trải nghiệm cuộc sống đầy khích lệ có Thần Khí ở với và ở cùng. Cùng với Chúa, con dân Ngài sẽ nhận ra sự thật rành rành, rằng: Ngài và Cha là một. Trở nên một và có Thần Khí ở cùng.

Cuối cùng thì, điểm nhấn mà thánh Gioan muốn chuyển đến mọi người, là: nhận thức về tín thư Thương khó – Phục Sinh bao gồm chỉ một bài thơ. Bài thơ Tin Mừng trải dài từ buổi Tạ Từ, ngang qua cái chết khổ nhục trên thập giá, để rồi thi-ca-thần-học có thêm phần tiếp tục nói về sự hiện diện đầy khích lệ của Thần Khí qua Đức Giêsu, khi Ngài đi vào tình trạng hư vô/trống rỗng dễ vỡ đổ của thập giá.

Trải nghiệm các chặng đường của nhiệm tích Vượt Qua, Chúa vẫn còn đó, có mặt với con dân người phàm, bằng uy lực Phục Sinh, rất trỗi dậy. Uy lực ấy, đã vực Ngài dậy để thành Đấng chuyên chở Thần Khí do Cha gửi đến với ta, qua việc đổ tràn ân huệ cho mọi người. Và sự việc đổ tràn ân huệ xuống và cho con người cũng như việc ở trong và ở với Thần Khí, là hai mặt của nhiệm tích rất giống nhau. Nhiệm tích cứu độ, Vượt Qua lại đã đi vào Phục sinh vĩnh cửu.

Thế đó là ý nghĩa mà thánh sử Gioan muốn truyền cho mọi người qua trình thuật chiên đàn có Chúa Chiên và Cha Ngài là một.

Trong tinh thần cảm nghiệm điều đó, ta lại sẽ ngâm lên lời thơ đầy ý nghĩa, để hát rằng:
“Ai cũng hiểu, chỉ một người không hiểu
Nên, có gã khờ ngọng nghịu mãi… thành câm.” (Đỗ Trung Quân – Chút Tình Đầu)

Tình đầu và tình Chúa, vẫn là thế. Là, thứ tình bền vững qua kinh nghiệm nhiều khổ ải, Phục Sinh Thần Thánh, ít người hiểu. Chỉ mỗi hiểu, khi thánh sử diễn giải nhiệm tích theo cung cách thi ca, vẫn thấy ở đời, rất con người.
Lm Kevin O’Shea, CSsR - Mai Tá lược dịch __________________________________________________________