Friday 25 January 2013

“Hờn ghen chưa giải thoát, nên thành bệnh”



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ Tư mùa thường niên năm C 03.02.2013

“Hờn ghen chưa giải thoát, nên thành bệnh”
“Sảng sốt từng cơn, nhớ bạo hành.”
(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Lk 4: 21-30
            Bệnh hờn ghen chưa giải thoát, nên thành chuyện. Cơn bạo hành sảng sốt, vẫn chưa nguôi. Vì chưa nguôi thành chuyện, nên cần tìm đến lời của Chúa để giải-hoá minh nhiên, hài hoà.
            Lời Chúa, các tuần tới trích dẫn nhiều trình thuật từ thánh Luca, rất già dặn. Lâu nay, ta thấy thánh Luca ghi trình thuật theo cung cách chuyển trao văn hoá từ Đạo của dân con Israel qua tôn giáo nhuốm mầu văn hoá Hy Lạp, thời đế quốc. Thánh Luca muốn Đạo đi vào cuộc sống đích thực như một “tôn giáo” khả dĩ tôn kính được và đã được kính tôn. Nhưng thánh sử không nghĩ đạo đó hoặc bất cứ đạo nào cũng thay thế được cuộc sống đích thực hoặc coi đó chỉ như chuyện phụ thuộc.
            Ngoài ra, thánh-nhân cũng đặt trọng tâm nơi trình thuật mình ghi đưa vào công cuộc thừa sai cho người ngoài. Tuy là thế, sứ vụ này có mục đích khuyến khích người ngoài Đạo hãy khởi sự di hành về với Giêrusalem góp phần tái thiết ngôi đền rất thánh. Làm như thế, người ngoài Đạo sẽ tìm ra nơi chốn đích thực để con dân Chúa tin tưởng vào tương lai, rất mai ngày.
            Giả như Đạo Chúa được coi là văn hoá rất tư riêng hầu sống đời lý tưởng, thì đó cũng không được nâng đỡ ở thế giới phàm tục. Hiểu như thế, cũng nên đọc trình thuật Luca như thể thánh nhân đã phát minh ra thế giới của riêng mình, trong đó lý tưởng về Đạo sẽ còn phấn đấu. Và như thế có nghĩa: mọi kẻ tin sẽ đề cao giá trị của Đạo và chứng tỏ cho người ngoài biết ý nghĩa ấy thế nào.
Chẳng hạn, thánh Luca viết: Chúa tuyên bố với dân con mọi người rằng: không thể có ranh giới giữa người với người. Thánh sử từng mô tả Chúa là thức ăn bổ dưỡng mọi người. Thánh Luca  muốn Chúa chủ trương trong Hội thánh không có ai trên/dưới, vẫn đồng quyền. Thánh sử không mấy đặt nặng việc diễn tả Chúa như Đấng Mêsia-chịu-nạn-chịu-chết, cho bằng Ngài là Đấng Phục Sinh quang vinh đã chiến thắng khổ đau và sự chết. Sự chết, theo nghĩa chia cách/tách rời. Và, Phục sinh mang nghĩa gồm tóm mọi người, bao gộp và cùng sống trong yêu thương, tuy va chạm.      
Điều, mà thánh Luca vẫn làm, là: cho thấy mô-hình chính-yếu qua đó mọi cái hay/đẹp không do thế giới này tạo ra. Đó chỉ là biểu tượng. Biểu tượng đặc trưng dạy ta cách sống không theo cung cách đặc thù, nhưng sống thực. Thánh Luca cũng đã chứng tỏ rằng: những gì thuộc về quá khứ đều do từ Chúa và Hội thánh mà ra. Thánh sử cũng hướng ta về với đặc trưng “dân dã” khá cởi mở và chiêm nghiệm; về với thế giới có cuộc sống dân sự vẫn chan hoà kẻ tin với những người còn ngờ vực, để rồi ta học cách sống tự do, biết lắng nghe và hiểu thấu đáo dấu chỉ thời đại mà tham gia cuộc sống ở ngoài.     
Có lẽ là, trong nhiều thập niên qua, ta có được kinh nghiệm sống khả dĩ giúp ta hiểu được nhiều sự việc. Chẳng hạn, qua mạng vi tính và những gì nó kéo theo sau, ta sống với thời đại truyền thông rất nhanh chóng cởi mở với mọi người. Xã hội ta chung sống, đã biết cho đi và sẵn sàng nhận đón nhiều phát minh về thông tin rộng khắp với các phương tiện tân tiến như USB, MP3, iPOD, chuyện trò trên mạng hoặc Faceboof, Youtube… nghĩa là ta có thể nắm bắt được những gì mình thích thú trong nền văn hoá vẫn trên đà thay đổi, chuyển biến. Đó là cuộc sống thị thành mà thánh Luca vẫn bị hớp hồn vào lúc trước với tầm mức giáo dục mỗi ngày một cao. Đó là nhân chủng học, cũng rất mới. Một thế giới ngày càng mang tính nhân bản hơn rất nhiều.
Nói thế là bởi trình thuật Luca đã đưa ra một số vấn nạn về lòng Đạo và giá trị thực của tín hữu trong quá khứ có ý nghĩa gì với thế giới phàm trần. Các kẻ tin khi ấy còn tìm hiểu nhiều hơn thế. Tuy vậy, điều này giúp người đọc hiểu rõ tâm trạng của thánh Luca tác giả so với cuộc sống của Chúa và các kẻ tin thời ban đầu, thì thế giới quanh ta hồi đầu thế kỷ thứ hai, lại rất khác. Thánh Luca vẫn tìm cách minh định vị trí cho giá trị nào từng tạo nên thế giới ban đầu và xem nhóm nào thực tình đóng góp cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Đầu trình thuật, thánh Luca mô tả Chúa phát biểu những điều chính yếu cho người có mặt ở hội đường Nadarét hôm ấy, tức những điều căn bản của niềm tin ta nêu ở trên. Trình thuật tuần rồi cũng nói đến chuyện tương tự như thế. Như thế, tức: theo các nhà chú giải, thì cảnh trí hội đường là do thánh Luca dàn dựng. Bởi, cho đến nay, các nhà khảo cổ vẫn chưa tìm ra di cảo nào về các Ngôn sứ đúng thực như thế. Tuy nhiên, ở đây, lịch sử không thành vấn đề. Vấn đề là: vào thời trước, muốn có nguồn hứng thú để làm việc gì đó mà chẳng có ai làm, điều ấy thật cần thiết. Sự việc nói ở đây, là bàn về cung cách sống thực chưa một ai biết tới. Và, thánh Luca ghi khắc vài đường nét có thể có, để người đọc Tin Mừng suy ra hầu tự biết.
Về việc này, có thể kể ra đây hai yếu tố khả dĩ trở thành sự thực. Thứ nhất, là: truyền thống tôn giáo thời tiên khởi –bất kể người đọc nghĩ thế nào về tính thánh thiêng và cung cách lịch sử của “Đức Chúa”- cũng không là việc để ta theo đó mà tiếp tục hiểu biết/bắt chước từng ly từng tí, rất máy móc. Bởi, lịch sử không chỉ là việc lập đi lập lại mà không thích ứng, như các nhà sinh-vật-học từng am tường và xác chứng. Thứ đến, dân gian quần chúng, chí ít là những người thuộc tầng lớp “dân dã”/thế tục hoặc có cuộc sống rất dân thường như ta ngang qua lịch sử nhân loại vẫn cần được tôn trọng và cần ta có động thái đúng đắn. Việc ấy không phải thứ yếu hoặc không cần thiết đối với Đạo, nhưng là cách thức để Đạo Chúa tìm ra được thế đứng trong hệ thống lớn rộng hơn.
Hiểu như thế, mới thấy thánh Luca đã có những suy nghĩ rất lớn lao, cao trọng. Ngài có đầu óc rất vĩ đại. Viết nhiều. Hiểu nhiều. Và, tư tưởng ngài cũng cao siêu, mang nhiều tính chất nói về tương lai mai ngày, rất ngôn sứ. Như trình thuật hôm nay, thánh nhân nói cho ta biết về những gì Chúa phát biểu ở hội đường. Ngài đưa ra nhiều tư tưởng chính yếu, mà dân chúng khi ấy cứ bác bỏ, không nghe lời. Bác bỏ, không chỉ có nghĩa chống đối, nghịch ngạo mà còn nổi dậy làm loạn chống lại ý niệm mới mẻ ấy nữa.
Thời hôm nay, quần chúng cũng đã và đang thực hiện những động thái tương tự như thời của thánh Luca, cả ở trong lẫn ở ngoài hội thánh. Thái độ của quần chúng bao giờ cũng thế. Vẫn cứ chống đối, nghịch ngạo, phản bác những gì được Chúa phát biểu như ở trình thuật được thánh Luca dàn dựng như một áng thơ. Vào buổi này, chúng dân biết rất ít và quan tâm cũng không nhiều về chuyện dấn thân theo Chúa mang ý nghĩa gì? Tựa hồ, ra sao? Kết quả thế nào?
Cũng có thể, thánh Luca giống Chúa, là cần đi vào và đi xuyên suốt các buổi bàn thảo, cãi tranh của thế giới, để rồi Ngài sẽ biến mất khỏi hiện trường cho đến khi con người giải quyết được mọi tranh chấp, lẫn xung đột. Bởi, thánh Luca không chỉ là tác giả công trình viết lách lớn lao như các thánh Phaolô, Máccô, Mátthêu. Nhưng thánh Luca lại đã và đang đưa ra những vấn đề thiết thực rất trực tuyến như con người thời đại. Ở mọi thời. Lúc nào cũng thế.
Thế nên, nhà thơ Luca rất thích hợp với dân gian ở thời buổi tràn ngập những kỹ thuật cao, vi tính, di động chỉ muốn giúp người đời đi vào và đi xuyên suốt những cái hay/cái đẹp của đời người. Và con người. Chí ít, là người được Chúa dẫn dắt, căn dặn và bảo ban.
Trong tâm tình đầy tính cảm nhận, cũng nên ngâm lại lời thơ trích ở trên, để lại hát:

            “Em hết là Em của Anh,
            Mà quên không nỡ, giận không đành.
            Hận chưa giải thoát, ghen thành bệnh.
Sảng sốt từng cơn, nhớ bạo hành.”

            Sảng sốt, hờn ghen với bạo hành, là chuyện của đời và của người. Còn, chuyện của con dân Đức Chúa vẫn theo gương lành của thánh-nhân, vẫn không rời. Cứ theo đường lối Chúa đi, để rồi chắc chắn sẽ thực thi cuộc sống thân thương, đằm thắm, êm ấm. Êm và ấm, như Hội thánh vẫn quyết tâm gìn giữ.
                                   
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá lược dịch
  

  

Wednesday 23 January 2013

“Hãy tưới lên hoa giọt lệ nồng,”



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ Ba mùa thường niên năm C 27.01.2013

“Hãy tưới lên hoa giọt lệ nồng,”
“Đếm từng cánh một mấy lần thương.”
(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Lk 1: 1-4; Lc 4: 14-21
            Lệ tưới lên hoa, lệ nào mà chẳng nồng. Thắm tình giọt lệ, tình nào mà chẳng là tình thương đâu cần đếm. Thương tình nồng, tựa hồ trình thuật nay cảm kích.
            Trình thuật thánh Luca, khởi đầu chương 4, tập trung nói về đời hoạt động của Đức Giêsu. Ở chương này, thánh sử nói rõ ý nghĩa việc Chúa làm bằng thể loại văn chương đầy kịch tính diễn tả toàn bộ ý nghĩa của công cuộc cứu độ.
Viết trình thuật cho mọi người hiểu, thánh Luca không để Chúa sử dụng ngôn từ mà người thời đại hôm nay có khuynh hướng hay dùng đến. Ngài không bảo: Ngài là hướng dẫn viên đưa mọi người ra khỏi thế giới gian trần, khi ta chết, để ta về chốn thiên đường đầy sung sướng. Chúa đến không chỉ để nói cho ta biết những sự thật xảy đến ngoài địa cầu. Ngài cũng chẳng bàn về truyền thống mà mọi người đều biết. Bởi, những gì Ngài khuyên dạy, điều mới mẻ.
Với thánh Luca, Đức Giêsu đến là Ngài sống cho người nghèo. Điều Ngài diễn giảng cho mọi người hiểu là về nghèo túng. Thế nên, vấn đề là mọi người vẫn cứ liên tục chống trả. Thêm vào đó, thánh Luca lại viết về Đức Giêsu từng có lập trường về những người nghe Ngài khuyên dạy lại không thích những chuyện như thế. Và, Chúa thường nói: vẫn còn nhiều người nghèo đói sống quanh ta, mà ta chẳng ngó ngàng gì đến cảnh tình của họ hết. Chẳng ai làm gì để giúp họ cả về luân lý, chính trị lẫn tôn giáo. Nhưng, Thiên Chúa lại cứ chủ trương như thế. Nên, sứ vụ của Đức Chúa là Ngài nói cho biết chuyện nghèo đói và khuyến khích mọi người hãy ra tay giúp đỡ họ.
Với người Do thái, việc ưu tiên số một là phụ giúp hết mọi người nghèo. Chuyện này chẳng có gì mới. Bởi, sách Cựu Ước vẫn có câu: Áp bức người yếu thế là sỉ nhục Đấng tạo thành nên họ, thương xót kẻ khó nghèo là tôn kính Đấng dựng nên người đó.” (Cn 14: 31) Đức Giêsu biết rõ tâm tính của người nghe, nên Ngài mới đề cập đến các chủ đề về: Vương quốc Nước Trời, quay trở về từ nơi lưu lạc, về canh tân giao ước, tái tạo trời mới/đất mới, giải phóng Israel, vv. Và, ưu tiên cao nhất là tập trung lo cho người nghèo. Nhưng, nội dung những chuyện được đề cập ở trên vẫn không coi khó nghèo như vấn đề liên quan đến hệ thống và cũng chẳng quan niệm sứ vụ giúp người nghèo là trọng tâm sinh hoạt trong đời họ. Thế nên, đó là chủ đề chính mà thánh Luca luôn đề cập.
Về chuyện của hệ thống, thì: vào thời Chúa sống, đế quốc La Mã và binh đội của họ, khi chinh phục Palestine, đã tìm cách triệt hạ văn hoá của người Palestine bằng việc xoá bỏ nền kinh tế của họ qua việc áp dụng thuế má cao. Làm như thế, hệ thống cầm quyền lại tạo thêm khó nghèo theo loại hình mới. Loại hình của sự thể: người nghèo vẫn cứ nghèo, là bởi người giàu vẫn khai thác họ. Điều này xảy ra với tất cả mọi xã hội văn minh. Họ coi đó là chuyện thường tình. Đấy là vấn đề. Vấn đề nhũng lạm, bất công, chèn ép. Và Đức Giêsu đến, Ngài chủ trương xoá bỏ mọi bất công, tái lập sự công bằng chính trực. Ngài quyết bênh vực người bị đối xử thiếu công bằng, chính đáng.
Nhân danh Cha Ngài, Đức Giêsu muốn phản bác cung cách áp dụng việc chèn ép những người dấn bước theo Ngài, để rồi thay đổi nền văn hoá nói chung như thánh Luca nhận xét. Với thánh nhân, “Đạo của Chúa” nhằm giải thoát người nghèo khỏi vòng cương toả ức hiếp của người giàu. Chẳng thế mà, những người nghe Ngài giảng dậy ở thôn làng Nadarét chẳng muốn lắng tai nghe Ngài. Và cũng chẳng tỏ bày tâm tình uất hận khi thấy sự thể rõ ràng là như thế. Nói cách khác nếu nghe mà không tỏ bày giận dữ với sự ức hiếp, tức là ta chẳng để tai nghe Ngài chút nào. Và, Đạo của Chúa nhất định chọn đứng về với người nghèo.
Có thể, ta nghĩ rằng thời buổi này ta nghe quá nhiều về chuyện khốn khó với nghèo hèn. Nhưng sự việc đang đổi thay theo hướng tồi tệ hơn. Khó nghèo đang là tình trạng được đưa vào cuộc sống có hệ thống, không qua sức mạnh binh bị nhưng bằng vào chính sách kinh tế, thuế khoá. Hiện nay, thế giới càng có thêm nhiều người nghèo hơn bao giờ hết. Phần lớn trong số họ là trẻ con. Nói đến người nghèo là nói về những người không có khả năng sống đúng tư cách công dân, tức vắng bóng cuộc sống đúng đắn; hoặc nói về những người cần được giúp để giải quyết nhiều khó khăn. Họ là những người chẳng có khả năng sống cho ra sống.
Nói đến người nghèo thời buổi này, là nói về những người đang có vấn đề về sức khoẻ, giáo dục, nhà ở và nhiều vấn đề khác như: thất nghiệp, không có phương tiện di chuyển, và cả đến vấn đề tương quan giao dịch cũng như có lối sống thích hợp. Nói đến người nghèo, là nói về những người đang đau khổ về đổ vỡ hôn nhân, về người mẹ đơn chiếc với đàn con lê lết, sống không ra người, vv. Những chuyện như thế xảy đến, hầu hết là do tiền bạc, phương tiện giải quyết tình trạng tiền cứ đổ dồn vào túi người giàu khiến họ càng giàu thêm, càng có khả năng và phương tiện để khuynh loát giới làm luật cũng như người áp dụng luật trong xã hội đang nhàu nát.
Yêu cầu đặt ra cho các nhóm giáo hội, nhất là Thiên Chúa giáo, là phải tra tay làm việc gì đó có lợi cho người nghèo. Dĩ nhiên trong tình thế hiện tại, không nhóm hội tôn giáo nào lại có khả năng tài chánh khả dĩ xoá bỏ được cảnh nghèo đói trong xã hội. Bởi, tất cả mọi nhóm hội từ-thiện nay lại vẫn tuỳ thuộc vào quỹ tài trợ của công quyền và vẫn chờ chính quyền ra tay can thiệp. Các quỹ tài trợ từ công quyền phụ đỡ người nghèo tuy có gia tăng nhưng vẫn muốn ở thế trung lập, không lệ thuộc vào các cuộc vận động của nhóm hội tôn giáo.
Hơn nữa, lại vẫn thấy khuynh hướng đối xử với người nghèo cũng mới mẻ và khác lạ, đang gia tăng. Khuynh hướng mới này lại cứ coi và liệt người nghèo vào đồng hạng với người có vấn đề ma túy, tội ác hoặc hạnh kiểm xấu. Khuynh hướng mới này coi những người bị như thế là do họ có chọn lựa không đúng cách, hoặc họ bị giới công quyền coi là thành phần thiếu học, kém văn minh, biếng nhác, không kiếm tìm việc làm hoặc đã có việc làm nhưng chẳng muốn sống cực nhọc hoặc vấy bẩn bàn tay sạch.
Với hiện trạng xã hội như thế, lại chồng chất thêm một loại hình kỳ thị mới. Kỳ thị đây, không chỉ về sắc tộc, tôn giáo nhưng còn nhiều thứ nữa. Người nghèo hèn, kẻ thiếu thốn vẫn được liệt vào thành phần sắc tộc mới đó. Nên buồn thay, cái khó của thời hiện tại là bản thân người đi Đạo như ta lại chẳng muốn dính dự vào chuyện tìm cách đổi thay tình trạng của xã hội xấu như thế. Và, đó chính là thiên tai văn hoá mang tính hệ thống mà Đức Giêsu muốn nói với người dân thành Nadarét của Ngài.
Chúa không dạy bảo ta phải chứng tỏ với mọi người là mình có khả năng biến đá sỏi thành cơm bánh. Ngài cũng không khuyên bảo dân con đi Đạo phải gia nhập các trò chính trị để nhượng bộ, hoặc xem ta có khả năng cải thiện được mọi chuyện không. Ngài không chủ trương dân con Ngài trở thành tín hữu đạo đức/sốt sắng luôn kêu cầu Chúa Cha biến đổi tình hình bằng kinh kệ. Thay vào đó, như trình thuật đề cập: ta biết mình phải làm gì.     
Đề nghị được Chúa đưa ra ở trình thuật hôm nay, là: các con hãy đến với người nghèo đói và yêu thương họ. Hãy, thẩm định lại ngôn ngữ của Hội thánh để ta có thể đem đến cho họ một chương trình hành động thực tiễn và có thực. Hãy làm tất để phụ giúp những người còn nghèo và đói hơn ta. Nếu mọi người chúng ta cùng nhau làm thế, thì hệ thống công quyền chuyên khai thác bóc lột người nghèo đói, sẽ phải đổi thay. Vậy hãy ra đi và làm thế. Làm, như thánh Luca từng viết lên lời đề nghị như thế. Vậy thì hôm nay, khi thuật lại Tin Mừng này hội thánh của Chúa cũng cốt ý để dân con mình xử thế hệt như thế. Vậy, hãy ra đi làm như điều thánh sử ghi chép lời đề nghị đanh thép của Chúa. Rồi ra, ta sẽ thấy kết quả đổi thay, ở xã hội.                  
Trong tinh thần nhận lãnh lời đề nghi tích cực ấy, cũng nên ngâm lại lời thơ ở trên, rằng:

            “Hay tưới lên hoa giọt lệ nồng,
            Đếm từng cánh một mấy lần thương.
            Hãy chôn những mảnh xuân tàn tạ,
            Và hãy chon sâu tận đáy lòng.”
            (Hàn Mặc Tử - Mơ Hoa)

Chôn sâu tận đáy lòng, không chỉ những mảnh xuân tàn tạ; mà còn chon cả những ý nghĩ không đúng về tình trạng khốn khổ của người nghèo. Để rồi, người người sẽ “đếm từng cánh một, mấy lần thương.” Thương yêu hết mọi người. Giúp đỡ cả những người cần được thương yêu, đang tàn tạ nhiều mùa xuân.
 
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá lược dịch

Saturday 12 January 2013

“Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm,



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ Hai mùa thường niên năm C 20.01.2013

“Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm,
“Hây hây thục nữ mắt như thuyền.”
(Dẫn từ thơ Xuân Diệu)
Ga 2: 1-11
            Ngừng thêu gấm, để mừng em lên xe tìm hạnh phúc. Mắt như thuyền, để tôi đi về tìm Lời Chúa ở bữa tiệc. Như trình thuật thánh sử ghi chép, rất hôm nay.
            Trình thuật thánh sử kể lại hôm nay, là kể về sinh hoạt Chúa hiện diện ở tiệc cưới xứ Cana. Thông thường thì, khi nghe kể về tiệc vày, người đọc thường liên tưởng đến Đức Nữ Trinh Maria cầu bàu Chúa, khi hết rượu. Hoặc, chỉ nghĩ đến ơn phúc Chúa gửi đến với hôn nhân. Hoặc, cả đến tính thánh thiêng của bí tích hôn phối trong Đạo; cũng như nhu cầu cần thực thi những gì Chúa dạy ở Tin Mừng. Nhưng nay, hãy nghĩ về vai trò ta phải có khi Chúa thực hiện mọi điều trong thế giới, ta đang sống.
            Truyện về tiệc cưới hôm nay, ta thấy Đức Giêsu đã lớn thành thanh niên trai tráng, rất trưởng thành. Cana, là xứ miền không xa Nadarét là mấy, tức thôn làng Chúa sống vào thời ấu thơ. Khi ấy, Chúa tham dự tiệc cưới theo kiểu Do thái tức tiến trình gồm hai bước, giống như ở một số nơi có đám hỏi vào năm trước. Sau đó, mới đưa cô dâu về nhà chồng có lễ hội kéo dài những 8 ngày ròng ở thôn làng; có mời mọc bạn bè người thân đến từ làng bên cạnh. Hôm ấy, Chúa có mặt ở nhà trai lúc có buổi đón dâu rất đình đám. Tiệc cưới ở đây, bao giờ cũng cần chuẩn bị rất nhiều rượu.  
  Cạnh thôn làng Chúa sống, lại có nhiều vườn nho được canh tác nhưng rượu được cất từ trại nho gần đó, lại không có được phẩm chất cao. Trong khi đó, trách nhiệm của nhà trai là phải chu cấp rượu ngon cho mọi người uống đủ. Nơi truyện kể, người kể không nói đến danh tánh của đôi trẻ, nên ta có thể đoán biết quan viên hai họ là những người được Chúa và Đức Mẹ cũng như mọi người trong làng đều biết đến. Cả đến tên của Mẹ cũng chẳng được người kể nêu tên, mà chỉ nói :”Mẹ của Đức Giêsu”. Cũng không thấy nói đến tên tuổi của đồ đệ Chúa có mặt vào hôm ấy.
Điều rất thú vị ở đây, ai cũng thấy là: Đức Maria là người được mời đến dự tiệc. Và, cả đến Đức Giêsu cũng như đồ đệ Ngài được mời đến. Và, xem ra Mẹ là chủ gia đình, tức người có thói quen coi ngó mọi việc nên Mẹ mới biết là: rượu đã cạn. Và, Mẹ đã ra tay hành động, cũng là giờ của Mẹ. “Giờ” của Mẹ Đức Chúa đã tới ở tiệc cưới hôm ấy, là vì mọi người trong cuộc đang có nhu cầu được Chúa ra tay giúp đỡ.
Việc Chúa ra tay giúp đỡ là đổ tràn tình thương Ngài ban phát cho những người có nhu cầu. Ngài nhìn quanh, thấy có vại nước. Nước, là biểu tượng của tình thương đang đổ tràn lu/vại và bảo mọi người hãy cứ uống. Thức uống Ngài bảo ban không chỉ là rượu, lại chính là tình thương đổ tràn lên họ và làm ấm áp tâm can họ. Họ không thể tin vào mắt mình rằng: còn gì quý bằng được uống nước tình thương đổ tràn trong đó. Ngài biến nước thành rượu nhưng Ngài biến nó thành biểu tượng của tình thương Ngài ban phát cho họ. Ngài vẫn còn làm việc đó cho ta mọi ngày.
Thế nhưng, đại ý câu truyện biến nước thành rượu ở đây là thế nào?
Là, Đức Maria cũng có vai trò trong việc Chúa thực hiện. Mẹ chỉ cho Chúa cơ hội bằng vàng để tình thương của Chúa được đổ tràn lên mọi người là những người có nhu cầu đem đến cho họ hơi ấm và cuộc sống. Mẹ thấy có vấn đề và Mẹ có được con của Mẹ là Chúa giải quyết giúp đỡ.
Cả ta nữa, cũng có thể làm được như Mẹ. Không phải để tổ chức tiệc cưới nào hết. Ta cũng không thể biến nước thành rượu, nhưng vẫn có thể giải quyết các khó khăn, mỗi khi bắt gặp. Ta có thể ra tay hành động. Và khi làm thế, ta có thể cho Chúa về những người đang có nhu cầu, như ta biết. Ta kêu cầu Chúa giúp họ. Ta cũng có thể nói với mọi người những điều như thế. Hãy cứ nói  với  bạn Đạo. Cả đến chính trị gia, hàng xóm láng giềng và có thể gọi số cấp cứu 000 hoặc 911, nếu thấy cần.
Điều cần thiết, là: hãy tỏ cho mọi người biết tình trạng của người cần được giúp và yêu cầu những người dửng dưng hãy tra tay hành động để phụ giúp. Nhưng, có lẽ thông điệp từ truyện kể hôm nay là để bảo: hãy làm những gì Chúa bảo. Và có lẽ, cũng nên làm như Mẹ từng làm. Sống và hành động như Đức Giêsu không có nghĩa là ta chỉ đi đến cửa hàng mua vài món quà cho ai đó. Nhưng là, đừng cả thẹn/ ngại ngùng khi mình “cho đi” tình thương yêu để giúp những người túng thiếu/ có nhu cầu. Là, cầu cho có được sự giúp đỡ thật sự cho người đang có nhu cầu. Hãy cho đi và nhận sự giúp đỡ mỗi khi cần.
Thành thử, hãy nghe lại thông điệp này, là: kể cho Chúa nghe một đôi điều và hãy ngạc nhiên khi thấy kết quả. Có lẽ nhiều người trong Hội thánh sẽ lấy làm lạ khi thấy các phụ nữ nghe được giọng nói mạnh cho Hội thánh biết những gì đang xảy đến; và, hội thánh cần làm việc gì đó để giúp đỡ những người cần giúp? Có lẽ cũng là điều thích thú, nếu Hội thánh triển khai khả năng thiết yếu lắng nghe và ra tay hành động.
Phụng vụ hôm nay cho thấy: ta sử dụng bài Tin Mừng này cho mùa lễ quanh năm để hoàn tất mùa Hiển linh, rất lễ hội. Hiển linh mùa lễ, không chỉ có truyện kể về ba vị đạo sĩ từ phương xa tìm đến, hoặc truyện Đức Chúa chịu phép rửa từ thánh Gioan. Bất cứ khi nào ta làm việc gì thực tế hoặc rất hữu dụng cho những ai đang cần đến, thì đó là lễ hội Hiển Linh với người thời đại, rất hôm nay.
Trong tinh thần hiểu biết rất như thế, cũng nên ngâm lại câu thơ ở trên, mà rằng:

            “Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm.
            Hây hây thục nữa mắt như thuyền.
Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu,
            Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.”
            (Xuên Điệu – Thu)

Thục nữ khi xưa, là Mẹ Chúa rất như thuyền. Mẹ vẫn khuyên dạy Con hãy nhớ đến đàn con hôm nay vẫn cần tình thương của mọi người, rất thường tình.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá lược dịch
  

 

Saturday 5 January 2013

“Em ban hạnh phúc trầm giai điệu,”



Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần có lễ Chúa chịu Phép Rửa năm C 13.01.2013

“Em ban hạnh phúc trầm giai điệu,”
khi gió nghiêng mình đến ngủ say.”
(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Lc 3: 15-16, 21-22
            Hạnh phúc em cứ ban, giai điệu trầm. Gió nghiêng mình say ngủ, tôi vẫn thức. Thức hay ngủ, vẫn để em, để tôi, ta luôn nhớ lời Ngài được thánh sử ghi rõ ở trình thuật.
            Trình thuật, nay thánh sử Luca kể về nhân vật Giêsu Kitô không còn là Hài nhi bé bỏng nằm trong nôi nữa. Nhưng, đã là thiếu niên tuổi “teen”. Truyện kể Tin Mừng hôm nay không còn kể câu truyện về buổi rửa tội cho con trẻ ở nguyện đường hay đâu đó. Mà là, những gì xảy đến với Đức Giêsu sau thời điểm Ngài được thánh Gioan thanh tẩy ở sông Giođan.
            Nói cách khác, thánh sử Luca chỉ muốn nói là: sau khi sự việc ở sông này kết thúc. Đức Giêsu đã có kinh nghiệm rất mới, quan trọng hơn cả lễ hội Giáng Sinh hoặc bất cứ thứ gì xảy đến trước đó. Kinh nghiệm này tỏ cho thấy sự thể ra sao? Ngài là ai? Ngài phải làm gì trong đời? Và, Thiên Chúa thực sự như thế nào? Thành thử, có thể nói: Kinh nghiệm thanh tẩy đôi khi còn được coi như một “Hiển Linh” vinh hiển mặc khải cho chính Ngài.
Mặc khải đây, là “thực tại.” Ta thường sử dụng cụm từ thực tế/ thực tại và cụm từ này lại thường dẫn đến thực tiễn. Nhưng, lại không thích đi thẳng vào khía cạnh thực dụng của sự vật. Bởi, thực tại cuộc sống không hoàn toàn tốt đẹp, về mọi mặt. Sự sống vẫn có mặt trái rất “sần sùi” của nó. Như nay có đổ vỡ, chộn rộn, rất bất trắc. Ngày mai, thì buồn sầu, đau khổ, nhiều thứ cứ giống như địa ngục trần gian hơn thiên đàng hạnh phúc. Sở dĩ có chuyện đó, là vì tính bài bác, đố kỵ ta đối với nhiều người. Tính khí ấy, thường khiến nhiều người không thể có được cuộc sống thực tiễn, cứ kéo họ xuống thấp khiến trở thành loại hình “nửa người nửa ngợm”, không cho họ có được phẩm cách tư riêng đáng tôn trọng.
Mặc khải Chúa Cha tỏ lộ cho Ngài ngay trong cuộc sống trưởng thành, là Ngài phải dính dự vào với cuộc sống rất thực tế, có khi còn ngụp lặn trong đó nữa. Thứ thực tại, còn thực tiễn hơn cả chính thực tế để biến cải. Đó chính là sứ vụ của Ngài. Điều này được thể hiện cách đặc trưng/đặc thù nơi lễ hội Thanh tẩy.
“Nước rửa” ở đây, tượng trưng cho thực tại qua tính chất rất sôi nổi đầy sóng vỗ. “Nước sông Giođan” là biểu tượng cho chốn miền mà nhiều người thấy mình cứ bị khốn khổ, vì đố kỵ. Ngài đi thẳng vào giòng nước, chứ không phải chỉ rưới xịt bằng vòi phun, và Ngài đã ngụp sâu ở trong đó. Sâu lút đầu, như Ngài vẫn sống tại nơi mọi người vẫn sống. Cùng có cảm nghiệm như mọi người vẫn cảm xúc. Và, Ngài sờ chạm vào thế giới của họ; và do bởi Ngài cao cả hơn sức mạnh của đố kỵ, nên Ngài đã biến cải nó. Ngài ra khỏi giòng nước rồi đem mọi người cùng Ngài vào giòng chảy đầy chữa lành và biến đổi tình huống sống động trong đời họ. Cùng với mọi người, Ngài đã “vượt qua” tất cả để đi vào cuộc sống cũng rất mới. Để, tất cả có khả năng trở thành sự hiệp thông phối hợp mọi người đến với nhau, có cuộc sống trân trọng nhau và không còn tranh chấp/đố kỵ nữa.
Nơi Ngài, đã đổi khác ngay sau đó. Bởi, từ đó Ngài không còn nhìn vào thể chế hoặc sự kiện mà chú ý nhiều vào con người. Ngài cho biết ý định mới của Thiên Chúa là mỗi người và mọi người sẽ sống cuộc sống được tôn trọng, cởi mở, rất tự do. Ngài vẫn dạy rằng: một khi ta khởi đầu sự sống như thế thì sẽ khám phá ra Thiên Chúa là ai, biết mình và mọi người là ai và làm sao lại có mặt ở nơi đây, trên quả địa cầu này. Và một khi Ngài đã làm thế thì ta và mọi người cũng có thể làm được như vậy.
Khi ta gia nhập nghi thức thanh tẩy, việc đó có nghĩa là ta san sẻ điều gì đó có cảm nghiệm của Đức Giêsu. Dĩ nhiên, không phải là cảm nghiệm về buổi ấy, mà là sau buổi đó, ngang qua học hỏi dù kết quả khá chậm của việc trở thành một “Kitô khác” trong Đức Kitô. Qua đó ta được cảm nghiệm để thấy được lập trường/quan điểm như Ngài từng làm.
Đôi lúc cũng có nhiều vị từng nhận ra nhiều sự việc giống như Đức Giêsu từng kinh nghiệm. Thế nhưng, thị kiến mà họ cảm nghiệm lại là kinh nghiệm tư riêng, cần san sẻ. Họ cũng không cần nối kết với sự khôn lanh, lành lặn có tên gọi là tẩy rửa. Nhưng, lại đã hiểu biết và sống thực điều đó. Đôi lúc, cũng có người từng sống thực việc tẩy rửa suốt đời họ. Nhưng, lại chưa từng nghe biết ý nghĩa đại loại như thế. Họ những tưởng lễ “Chúa chịu phép rửa” chỉ là nghi thức phụng vụ như cử hành việc thanh tẩy trẻ nhỏ mới hạ sinh hoặc cởi bỏ mọi lỗi tội của tiên tổ hoặc chỉ như ban phúc lành cho con trẻ, mà thôi. 
Nhưng thật ra, lễ hội hôm nay là để mọi người đến với nhau và đưa nhau vào giòng chảy có kinh nghiệm của cuộc sống. Rồi sẽ khám phá ra rằng tất cả mọi người đều tìm cách dính dự vào với thực tại để thay đổi nó, biến cải nó cho nhau và với nhau Và từ đó, sẽ có thánh hội rất đổi mới. Có cả nhân loại đã biến đổi, cho mọi người.
Làm thế nào để được như thế? Thánh Luca, trong truyện kể Tin Mừng ngài ghi lại hôm nay, đã có nói: Thần Khí Chúa đã ở với Đức Giêsu và đã khiến Ngài làm thế. Có lẽ, Thần Khí Chúa cũng sẽ đến và tỏ bày cho ta biết đường lối như thế. Thành thử, lễ hội “Chúa chịu thanh tẩy” đối với ta, chỉ có nghĩa, một lần nữa, là để ta khởi sự lên đường thực hiện sứ vụ đi vào với Thần Khí của Ngài.
Trong tâm tình nhận ra được thực tế đó, ta lại ngâm lên lời thơ rằng:

            “Em ban hạnh phúc trầm giai điệu,
            khi gió nghiêng mình đến ngủ say
            mười ngón tay buồn chưa ráo lệ,
            một cung bạch ngọc náo trường canh.”
            (Đinh Hùng – Đàn Thu Tay Ngọc)

Giai điệu hạnh phúc khi xưa do tay ngọc. Đàn thu nhạc buồn hôm nay, vẫn dẫn đưa mọi người đi vào với thực tế cuộc đời có Thần Khí Chúa ở cùng, rất ngủ say.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá lược dịch