Suy niệm
Lời Ngài đọc trong tuần thứ Ba Phục Sinh năm C 14.4.2013
“Tôi vẫn đợi, đợi thêm người chút
nữa,"
“Tự an ủi mình, khi cắn nỗi sầu đau.”
(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Ga 21: 1-19
Đợi như
tôi, đâu cần “cắn nỗi sầu đau” bao giờ! Đợi như người, có vị lại hành xử giống như
thơ. Đợi Thơ ở nhà Đạo, là đợi chờ một hành xử giống hệt như thánh cả, rất
Phêrô.
Trình thuật thánh Gioan, nay mô tả thánh
Phêrô bằng vào hành xử tựa như thế. Nhưng trước hết, hãy xem thánh Mát-thêu diễn
giải thế nào về Phêrô thánh cả của Hội thánh. Với thánh Mát-thêu, cuối bài
giảng trên núi có nói “người khôn xây nhà trên đá”. Và, thánh Mát-thêu lại cũng
diễn tả Phêrô thánh cả như đá tảng trên đó Chúa xây dựng Hội thánh. Xem thế thì,
người khôn đây là Đức Chúa, còn đá tảng đó là Phêrô cũng từng chảy nước trước
biến cố khó xử.
Thánh Mát-thêu viết trình thuật, lại
nối kết Đức Giêsu với Môsê trong đó có đá tảng chảy những nước là nước cho dân uống.
Và, thánh-sử cũng nói về thánh Phêrô nghi ngờ/kháng cự ý nghĩ về đá tảng giống như
thế. Sự thật thì, thánh Phêrô cũng đã đem nước của “sự sống” đến với thánh Hội,
nhưng làm thế chỉ biểu trưng cho tình thương/tương quan với mọi người, chứ
không chỉ kể về nền tảng của Hội thánh, thôi.
Là đá tảng vẫn chảy nước, thánh
Phêrô đôi lúc cũng âm thầm hoặc công khai đối kháng ý định của Thày mình. Thánh
Mát-thêu lại cũng viết về thánh Phêrô những là: đắng cay, chảy nước mắt lúc
Thày chấp nhận Thương khó trước cả lúc thánh Phêrô thực hiện công cuộc thừa
tác, cho Chúa. Bởi nếu không, thánh-nhân cũng chỉ là “đá sỏi ở bên đường” nơi đó
không hạt giống nào nhú mọc được, cách tốt tươi. Xem thế thì, đá tảng khóc đầy
nước chẳng là “đá góc tường” hoặc “đá nền” bền bỉ để Chúa xây dựng cộng đoàn Hội
thánh của Ngài.
Đá tảng chảy nước ròng, hoặc “đá nền”
bền bỉ chỉ biểu trưng về cách gìn giữ những gì được trân quý, đệ đạt. Đặc trưng
ổn định cuộc sống sau thời lưu lạc tựa hồ Môsê đập gậy vào đá, thấy đá chảy nước
khóc ròng. Nói thế, có nghĩa: giai đoạn chuyển tiếp đã bắt đầu và diễn tiến đến
giai đoạn không còn xảy ra như thế nữa. Thêm vào đó, chẳng đá nào dát vàng ròng
trong cùng chỗ như thế.
Người đập gậy vào đá những hai lần, là
muốn có nước để uống múc ngay tức thì, hoặc vẫn không tin vào khả năng chảy
nước ròng từ đá tảng khô cứng, tức: vị ấy những muốn gỡ bỏ tiến trình chờ đợi để
sự việc chóng đến với mình, mà thôi. Thiên Chúa không muốn những chuyện như thế
xảy đến với con người. Xảy ra như thế, tức: con dân Ngài nay chẳng tin tưởng điều
gì hết. Trên thực tế, đã có lệnh cấm thờ bò vàng làm từ đá quý hay lệnh cản ngăn
tạo nước uống rất mau chóng; hoặc, có thể cũng khước từ lệnh truyền phải tiến thẳng
đạt tới đích điểm. Làm thế, sẽ chẳng đạt Đất Lành Chúa hứa, dù tổ phụ Môsê hay
những ai thuộc thế hệ kế tiếp, tiến hành vào Đất Lành, Ngài hứa hẹn.
Cũng nên nhớ: thánh Phêrô khi trước,
không là đấng bậc có văn hoá/văn minh La-Hy, thị thành. Thánh Luca khi kể về thánh
Phêrô, lại đã mô tả thánh cả là người “không biết gì về ngữ pháp” tức chẳng
biết đọc/biết viết, rất sai sót rồi bị sửa sai, nên không thích. Thánh Mác-cô
lại đã viết: Chúa quở trách thánh Phêrô khi thánh cả cứ nghĩ Thày mình là Đức Mêsia
cao cả như vua cha ngoài đời. Riêng thánh Gioan lại kể về thánh Phêrô là đấng
bậc tuy cao cả nhưng vẫn chối Chúa, chối Thày, khi bị người tớ gái hỏi han về
tiểu sử, đến ba lần. Tiếp đó, thánh Phêrô lại ra ngoài khóc sướt mướt hơn cả đá
tảng chảy nước ròng, nhiều lúc. Nói thế có nghĩa: thánh Phêrô đã biết khóc ròng
khi phạm lỗi.
Trình thuật, nay kể về Đức Chúa tỏ hiện
với các thánh, trong đó có Phêrô thánh cả và khi Chúa hỏi thánh cả có thương
Thày hơn mọi người không, thánh Phêrô thấy đau lòng tự hỏi: sao Thày mình lại hỏi
thế. Bởi, dù sao, ai cũng biết thánh Phêrô thương Thày biết chừng nào.
Đọc trình thuật, người người mường tượng
cảnh huống thánh Phêrô đã khóc hết nước mắt, như đá tảng chảy nước ròng, hệt
như thế. Như thế là: ở đây, ta có đá tảng chảy nước ròng; và trên đá ấy, Đức
Chúa Phục sinh đã tin tưởng vẫn trao ban vai trò cai quản, dựng xây chiên đàn
của Chúa, là Hội thánh.
Có thể nói, không ai làm được việc
ấy, mà lại không trải qua kinh nghiệm từng mất tinh thần đến tột cùng tột độ,
bật thành nước. Và có thể nói: cung cách thánh Phêrô biết rõ và cảm kích Thày mình
đã Phục Sinh trỗi dậy qua việc nhận ra Thày là Đấng thông hiểu lòng mình, khiến
mình khóc hết nước mắt.
So sánh hai trình thuật thánh Mátthêu
và Gioan kể về thánh cả Phêrô, ta thấy các vị nối nghiệp thánh cả cũng đã sẻ san
công việc của đấng lãnh đạo Hội thánh, khá thích thú. Sự thật thì: lần đầu tiến
đến Rôma, thánh Phêrô đã không xử sự theo cung cách của đấng bậc làm đầu như ta
vẫn nhìn và trông đợi nơi vai trò của các Giáo hoàng, mọi thời đại.
Thật sự thì, từ ban đầu, Hội thánh chẳng
có ý định dựng xây dinh thự gì cao cả, vững chắc. Dân con Chúa lúc ấy chỉ tụ
tập quanh các “nhà-dùng làm nguyện đường”, có thế thôi. Có thể, thánh Phêrô lúc
ấy cũng có giáo xứ/giáo đoàn phụ đỡ trong việc dẫn dắt nhóm hội/đoàn thể, khá
bề thế. Có thể, thánh cả Phêrô cũng lập được dăm ba thày sáu giúp quản trị từ
thiện hoặc huấn luyện tân tòng bằng giảng dạy. Cũng có thể, thánh Phêrô lại đã nhờ
vả một hai vị để quan hệ với xã hội bên ngoài, mỗi khi cần.
Mãi đến thế kỷ thứ tư, các Giám mục
kế tục ngôi giáo hoàng, mới có các “công chứng viên” chuyên trách giấy tờ và
thừa-tác-vụ để liên hệ với các giáo hội địa phương. Đó là thời điểm giáo hội mình
xây đền thánh Latêranô và các nguyện đường khác ở Rôma. Lúc ấy, cũng có các “Vương
Cung Thánh Đường” rộn rã, nhưng độc nhất vẫn chỉ có một “Nhà Thờ Chánh Toà, mà thôi.
Nhà thờ ấy, là nơi Giám mục chủ quản giáo phận sở tại; và, Vương Cung Thánh Đường
khi ấy cũng tựa hồ như dinh thự của vua quan/lãnh chúa bề thế ở đời thường.
Kịp đến thế kỷ thứ 13, Giáo triều La
Mã mới có vị “Chưởng Ấn” giúp quản cai Hội thánh cách hữu hiệu hơn nhiều. Vào thế
kỷ thứ 14, thì vị “Chưởng Ấn” của Giáo hội đã làm việc với các nhóm/hội mang
tên gọi khác nhau. Nhưng, tính từ thời gian đầu thành lập, mọi người trong đó có
thể gọi thánh bộ ngoại giao như hiện nay. Các thế kỷ sau đó, lại cũng có các hồng
y, tương tợ nghị viện La Mã thời cổ xưa vẫn nhóm họp một tuần những ba lần để nghị-sự
và/hoặc bầu chọn các giáo hoàng mới.
Lịch sử chứng minh: nhiều vị giáo
hoàng đã không ngừng giảm bớt quyền thế của các hồng y. Và, một số giáo hoàng
thời đó đã rút lại cho mình quyền hành pháp, lập pháp lẫn tư pháp và ít cho
phép thuộc viên/cấp dưới được kiểm soát hoặc cân bằng quyền thế với các ngài.
Các vị giáo hoàng khi ấy, lại đã phấn đấu chống trả các vua quan/lãnh chúa ở đời
suốt nhiều thế kỷ khi các vị này tìm cách gây ảnh hưởng lên giáo quyền.
Đến thế kỷ thứ 18 và 19, vua quan/lãnh
chúa ở đời mới bị cất bỏ quyền hành hoặc uy tín giảm sút đến độ chỉ tượng trưng
sau nhiều biến chuyển ở Châu Âu. Hậu quả thấy rõ nhất, là: mọi quyền bính khi
ấy đều tập trung vào Hội thánh Công giáo La Mã, ở Vatican. Và Đức Giáo Hoàng cùng các thánh
bộ của ngài đã tạo nên thể chế gọi là Giáo triều La Mã. Và, các triều đại Giáo
hoàng quyền uy cứ thế gia tăng, bền bỉ. Nhiều bằng chứng cho thấy: tâm não người
đi Đạo vẫn coi sự việc này như chuyện thực thi ý định của Chúa quyết kế nghiệp
ngai vàng từ thánh Phêrô, không thể bỏ.
Ngày hôm nay, điều hay nhất cho vị thế
Giáo hoàng, Giám mục và các linh mục, là: cũng nên đứng cùng hàng với đấng
thánh cả chuyên khóc ròng nhưng đã biết thiết lập thánh hội của ngài thành chốn
miền cảm thông thương mến, như Thày Chí Ái từng mong chuyện ấy sẽ xảy ra, ở mọi
thời.
Cảm nghiệm tinh thần Chúa trao ban quyền
uy cho thánh cả, ta ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:
“Tôi vẫn đợi, đợi thêm người chút nữa
Tự an ủi mình, khi cắn
nổi sầu đau.
Tình một hai năm…chưa
bạc mái đầu
Chưa tuyệt vọng (bởi vì
chưa hy vọng)
Và hôm nay, mưa nhiều trên tóc nhuộm
Xơ xác
người, tôi thấy buồn chưa tôi?
(Nguyễn Tất Nhiên – Tình Một Hai Năm)
Xơ xác người, nhưng đâu là tâm trạng
của thánh cả. Thánh rất cả, dù khóc ròng/chảy nước cũng nhiều khi. Những khi và
những lúc Chúa quyết định để Hội thánh nhớ mãi: đá tảng mà còn chảy nước, rất
sướt mướt. Vẫn khóc ròng, nhưng không tuyệt vọng như nhà thơ đời, rất ở đời.
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment