Suy niệm
Chúa Nhật thứ Hai mùa Vọng năm B 04.12.2011
“Nay trở về, vẫn còn như mới mẻ,”
“Bao mùa thu, hoa vẫn
vàng như thế.”
(dẫn từ thơ Xuân Quỳnh)
Mc 1: 1-8
Nhà thơ trở về, đã thấy mọi sự vẫn
như thế. Riêng nhà Đạo trở về, để được những gì Chúa nhắn gửi khi xưa Ngài đã
hứa ? Điều Chúa hứa, là những điều được thánh sử ghi lại ở trình thuật, rất hôm
nay.
Trình thuật thánh Máccô nay viết về
việc Chúa trở về. Ngài về với Giáng sinh. Về với an bình Ngài từng hứa. Trình
thuật, ngay từ đầu, thánh Mác-cô đã trích dẫn câu văn rút từ sách Ysaya nói về
việc người người chuẩn bị đường lối sống để Chúa trở về với dân con của Ngài
vào những ngày sau lưu đày. Dù có ngang qua mọi khổ ải, nhưng người người đều
hy vọng về với Đất lành Chúa hứa ban. Đất lành đây, không chỉ là đất miền sỏi
đá, rất thể lý. Nhưng, còn là hành trình nội tâm ngay bên trong sa mạc nhiều đá
sỏi. Đó, còn là hành trình về với sự khôn ngoan được giấu kín.
Với Ysaya, hành trình dân con Chúa
trở về thật ra chưa hoàn tất. Thật vậy, hành trình của mọi người vẫn còn tiếp
tục. Mỗi người và mọi người, cần tạo đường lối tốt lành để ngang qua đó mà dấn
bước, trước khi hoàn tất thời lưu đày nơi dân gian. Dân gian, dù người người đã
được tái cư, nhưng chưa hẳn là đã thật sự “trở về”. Chỉ trở về thật sự sau khi đã
hoàn tất hành trình lưu đày của mình. Và lúc đó, người người mới được tỏ bày
cho thấy rằng mình là hoa trái được chúc phúc, từ cung lòng thân yêu của Chúa,
thôi.
Chủ đề “ngày trở về” cứ diễn tiến,
là ý tưởng làm nền được thánh Máccô đề ra để mọi người suy nghĩ. Khởi đầu Tin
Mừng do mình đề xuất, thánh Mác-cô có nói: “Như
đã viết trong sách Ysaya… Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa
đi.” (Mc 1: 1-3) Đây chính là tin vui mừng về Lời của Chúa theo bút pháp
riêng biệt của thánh Mác-cô như quyển thứ hai sách Ysaya. Tin mừng, theo bút
pháp của Ysaya, là triển vọng về sự trở lại sau ngày lưu đày. Thánh Gioan Tẩy
Giả đã loan báo điều ấy. Và chính Đức Giêsu cũng sẽ theo đường lối ấy mà thực
hiện theo cung cách mới. Cách thế của một trở về, rất mới mẻ.
Ở nội dung
ngôn từ của Ysaya, có ba “thời khắc” cho thấy rõ sự trở về này:
Trước hết, Giavê Thiên Chúa sẽ giải
thoát con dân Ngài khỏi quyền lực bức bách từ phía dân ngoại và từ ngẫu thần
của họ. Tức, ra khỏi nền văn hoá thống trị và hệ thống giá trị có từ đó. Nói
tóm lại, thì thời khắc đầu là: thời giải thoát.
Thời khắc tiếp đến, là lúc dân con
Đạo Chúa dấn bước dõi theo con đường được Giavê Thiên Chúa vẫn hướng dẫn. Thời
khắc, của hiện trạng “dấn bước” mà ra đi.
Và cuối cùng, tất cả đều cùng đi và
cùng đến với Giêrusalem, đất miền tuyệt diệu có sự hiện diện của Giavê Thiên
Chúa như chính Đức Vua. Ở nơi đó, có Vương Quốc Nước Trời đến với họ. Chính đó,
là thời khắc của hiện trạng nay “đạt đến”.
Thánh Mác-cô theo cung cách Ysaya
quyển 2 đề cập đến ba giai đoạn tương tự, ở Tin Mừng:
Giai đoạn một, là thời khắc Chúa
thực hiện sứ vụ giảng rao “Tin Mừng” ở Galilê. Nơi đây, Chúa chữa lành cho
người tật bệnh. Xua đuổi loài quỷ dữ cứ quẩn quanh. Và, dân gian quần chúng cứ
tuôn đến với Ngài để được cứu. Đây chính là thời “giải thoát” rất rõ
nét.
Giai đoạn hai, là giai đoạn Chúa lên
đường “đi Giêrusalem” sau sự kiện thánh Phêrô tuyên xưng nhận biết Chúa là Đấng
Mêsia rất Cứu Độ. Chúa quyết định tỏ lộ lý lịch Ngài là Mêsia Đấng chấp nhận
khổ đau, sầu buồn để thực hiện điều Cha muốn. Đã ba lần, Ngài từng nói sẽ đi
dần vào cõi chết và sau đó sẽ trỗi dậy từ chốn ấy, trong ba ngày. Nghe thế, dân
con đồ đệ đã rời bỏ, vụt biến mất. Chỉ những ai ở lại với Ngài, mới biết được
đường lối Ngài chịu đựng khổ đau/sầu buồn thôi. Và, đây là giai đoạn “dấn
bước” vào với sự chết và sống lại.
Giai đoạn ba, là giai đoạn cuối cho
thấy Chúa đi dần về với Giêrusalem, nơi Ngài chấp nhận sự chết và sống lại vinh
hiển. Chính Ngài và dân con Ngài phải “đạt đến” sự chết-và-sống-lại, rất
đích thực.
Dẫn chứng trên cho thấy: đây là nét
song hành đặc biệt giữa điều được gọi là “Ysaya thứ hai” và phần hai sách Tin
Mừng do thánh Mác-cô ghi. Con đường dẫn đến Giêrusalem, là: “dấn bước” mà đi
vào và đi tới. Chính động thái song hành này, đã cho thấy chiều kích tự tại,
rất đặc biệt.
Ở Ysaya quyển hai, đường lối mới ở
đây là học cách thi hành trình thuật khôn khéo nhờ đó bất cứ con dân nào ở lại
với Chúa, giống như đồ đệ Ngài, đều phải học hỏi để hiểu và biết Giavê Thiên
Chúa. Học về Chúa, rất chầm chậm. Học với Chúa, để tinh thông.
Thánh Mác-cô còn nhận định: khi Chúa
thiết lập hành trình về với Giêrusalem, Ngài đã loại bỏ toàn bộ sinh hoạt của
Người Con từng rong ruổi đường dài để hiện thực một sứ vụ, cũng rất mới. Và, đó
là lúc dân gian quần chúng đã vụt biến. Và khi ấy, nhóm đồ đệ Chúa được giáo
huấn theo cung cách khác thường, rất đặc biệt. Đặc biệt là, học hỏi Chúa rất
chầm chậm.
Tựa hồ như ở sách Ysaya, đồ đệ Chúa
được hướng dẫn để đi theo đường lối mình chưa biết đến vì mù và loà như sách
Ysaya nói. Các thánh được hướng đưa và dắt dìu, như lời Chúa khi xưa nói: “Ta dẫn người mù tối qua những lối chưa
tường, trên nẻo đường mới lạ, sẽ dìu họ bước đi. Ta biến đổi bóng tối thành ánh
sáng soi họ, và uốn khúc gập ghềnh thành quan lộ thẳng băng. Những điều ấy, Ta
sẽ thực hiện, không bỏ sót điều nào.” (Ys 42: 16)
Chủ đề “mù loà” và hồi phục thị giác
đã được thánh Máccô ghi rất chi tiết ở Tin Mừng do thánh nhân viết ngang qua
hai sự kiện chữa lành: một về người mù thành Bétsaiđa (Mc 8: 22-26) và một về
người mù thành Giêrikhô (Mc 10: 46). Rõ ràng, đây là phong cách đặc biệt được thánh Mác-cô sử dụng rất thường nhật, ở
trình thuật. Bằng cách này, thánh nhân vẫn đưa vào phần trước và sau ở đoạn
cuối Tin Mừng lời bàn về tính đặc trưng/đặc thù nơi đồ đệ Chúa, bằng một khẳng
định: “Anh em có mắt mà không thấy, có
tai mà không nghe ư? (Mt 8: 18) Thật ra thì, đồ đệ Chúa chỉ mù và loà về
chiều kích khổ đau Chúa chấp nhận. Đồ đệ dấn bước theo Ngài là những người
quyết chấp nhận học hỏi tuy rất chậm về giáo huấn khổ đau/sầu buồn Ngài từng
chịu.
Giáo huấn này, được Chúa nói trước
những ba lần về cuộc thống khổ của Ngài. Đỉnh cao ba đoạn văn này là đoạn 10,
câu 42b đến 45, qua đó thánh sử đã lại viết: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ
và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." Tin Mừng thánh Mác-cô
viết, có đoạn còn qui rõ về cái chết của Chúa, như ở trên. Còn lại, là đoạn 14
câu 24 qua đó thánh sử viết về Tiệc Tạ Từ, trong đó có ghi rõ: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước đổ ra vì muôn
người”. Ngoài ra, ở đoạn 10 câu 42, thánh Máccô đặt song song với đoạn 20
câu 28 của Mát-thêu, để coi đó như biểu hiện một xác quyết, ở trình thuật.
“Đổ ra vì muôn người”, là xác quyết hiện lên như nhu liệu cuối tìm được ở Tân Ước.
Và cả ở lá thư đầu tay thánh Phaolô viết chođồ đệ Timôtê như văn bản viết vào
cuối thế kỷ đầu, vẫn được coi là đoạn văn tóm kết niềm tin của dân con Đạo
Chúa, thời tiên khởi. Tuy tóm kết, nhưng người viết vẫn kêu gọi mọi người hãy
cùng Chúa định vị chính mình như những người dám “hy sinh vì muôn người”. Có thể, đây là công thức về niềm tin có từ
thời xưa cũ. Xưa và cũ, hơn những gì do chính thánh Mác-cô từng viết và từng
được coi như sử sách, rất đích thực.
Nói cho cùng, chuẩn bị mừng đón ngày
Chúa Giáng Hạ còn là nhận chân rằng: dân con đồ đệ từng dấn bước theo chân Chúa
phải xác quyết mình sẽ tận hiến mạng sống vì muôn người. Xác quyết cả chuyện
dấn thân đi vào con đường khổ đau/sầu buồn, mà nhận lãnh.
Ở Tiệc lòng mến rất Thánh Thể, Đức
Giêsu vẫn tỏ cho thấy Ngài vẫn làm việc ấy, cho ta. Và, với ta. Suốt mọi ngày,
từ nay cho đến ngày kết tận, của thế giới.
Trong tâm tình cùng Chúa chấp nhận
hy sinh vì muôn người, cũng nên về với thơ văn ở đời mà ngâm nga, cảm kích. Cảm
và kích bằng giòng thơ:
“Bao mùa thu, hoa vẫn vàng như thế,
chỉ là, em
đã khác với em xưa.
Nắng nhạt
vàng, ngày đã quá trưa,
Nào đâu, những biển chờ nơi cuối đất.”
(Xuân Quỳnh – Hoa Cúc)
Dù, nắng có
nhạt ngày quá trưa, em và anh vẫn đâu nào khác trước. Có khác chăng, chỉ khác
mỗi một điểm, là anh và em nay đổi mới. Đổi rất nhiều, ngày Chúa đến. Đổi, với
thánh hội. Ở muôn nơi. Suốt mọi thời
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh.
Mai Tá lược dịch.
No comments:
Post a Comment