Suy niệm Chúa Nhật thứ 33 thường niên năm A 13.11.2011
“Ta ngỡ
mất, mà chưa đành đánh mất,”
“Bởi mùi hương ngự trị, cánh hoa tàn.”
(dẫn từ
thơ VươngNgọc Long)
Mt 25: 14-30
Mất tình/mất
tiền, nào mấy sợ. Bởi, tình/tiền xưa nay còn đó vẫn rất hiền. Cái dễ mất nhất,
là niềm tin Chúa gửi nơi lòng dạ con người từ xưa đến nay. Lòng dạ ấy nay đà
thấy ở trình thuật, ngày Chúa nhật.
Trình
thuật Chúa nhật về niềm tin để luột mất, là ý tứ và ý từ được thánh Mat-thêu đề
cập đến qua dụ ngôn kể lại hôm nay. Dụ ngôn, nay kể về “yến bạc” giao cho các
người đầy tớ để sinh lời. Dụ ngôn, nay mang nặng tình tiết nối tiếp truyện kể đọc
tuần trước, cũng đề cập việc sử dụng và đầu tư của cải vào mọi chuyện.
Thời xưa,
“yến bạc” là đơn vị đo lường trọng lượng. Đó, là đồng cân nặng nhất trong hệ
thống cần lường. Yến bạc, được dùng để cân đo vàng/bạc, kim loại, và đồ đồng. Mãi
về sau, con người mới dùng nó làm đơn vị tiền tệ. Với người Do thái, một yến bạc
tương đương với 3,000 shekels, tương tự định mức cân lượng mà người thường mang
vác được. Lịch sử sau thời của Chúa và vào thời thánh Mát-thêu, thì một yến bạc
tương đương với 6, 000 quan tiền người La Mã. 6,000 quan tiền, tương đương với lợi
tức mà công nhân bình thường ở huyện có khả năng kiếm được trong vòng 15 đến 20
năm. Đó, cũng là lối nói thông thường về “một tấn tiền quan” người La Mã.
Người chủ được
nói đến ở dụ ngôn, là người bận rộn, phải đi xa một thời gian không biết trước
được hạn định. Ông trao cho 3 người tớ của ông 3 lượng tiền khác nhau. Một người,
những 5 yến bạc. Kẻ kia chỉ hai yến. Còn người chót, chỉ mỗi yến một. Tất cả
đều tuỳ khả năng của mỗi người. Nhưng, ông lại không cho họ biết phải làm gì với
số bạc ấy. Ông coi mọi người như kẻ chín chắn. Chững chạc. Ông rất tôn trọng tự
do và sức sáng tạo, của mỗi người. Và, ông cũng chẳng hề nghĩ là ông đã trao
phần ít ỏi cho người đầy tớ thứ nhì và thứ ba. Bởi, mỗi yến bạc khi ấy nặng cả
tấn tiền.
Về cốt
truyện thì ai cũng đều đã tỏ. Hai người tớ đầu, đều biết mình phải làm gì với
số lượng yến bào do chủ ũy thác. Tức, sử dụng nó một cách mẫn cán. Hiệu quả. Cả
hai người này đều làm lợi cho chủ nhiều điều thấy rất rõ. Trong khi đó, người đầy
tớ cuối lại không hành xử hệt như thế. Y đào đất chôn tiền quan xuống đó, tưởng
rằng làm thế tức tạo sự an toàn, đúng đắn như bỏ vào két sắt/quỹ tiết kiệm, mà
chẳng biết đầu tư cũng chẳng sinh lời sinh lãi.
Đó là biện
pháp an toàn tối thiểu mà người mà người tệ bạc nhất cũng nghĩ ra. Tức, không
sinh lợi nhưng cũng chẳng làm hại, chẳng thua lỗ điều gì. Tức, không tạo tăng
trưởng, nhưng cũng chẳng làm ai thiệt thòi. Mất mát. Y ta đem về cho chủ đúng
số lượng buổi ban đầu do chủ giao, chẳng dùng vào việc chi hết. Cất như thế, có
bỏ công tìm kỹ cũng chẳng thấy được dấu tay, hoặc vết tích.Thật ra, y ta chẳng
làm điều gì sai trái cả. Vì có làm gì đâu mà có sai sót.
Dụ ngôn cũng
cho thấy: hai người đầy tớ đầu được chủ tặng thưởng rất hậu hỹ. Lại được chủ
gọi đích danh “tôi tớ lương hảo và trung trực”. Tức, nhận nhiều trách nhiệm sẽ
gặt hái được nhiều niềm vui. Trong khi đó, người tớ chót bị chủ cho là thành
phần “bất hảo, lươi biếng”, đáng chê trách. Nói đúng ra, phải gọi anh ta là kẻ
vô tích sự, chẳng làm được gì nên chuyện. Một thứ “ăn hại đái nát”, chẳng giống
ai. Tức, những loại người ăn không ngồi rỗi, rất đáng buồn. Thế nên, họ mới bị
lên án, dù chẳng lỡ lầm. Hoặc, sai trái.
Có lẽ khi
viết lên dụ ngôn này, thánh sử Mat-thêu đã mang trong đầu ý tưởng về hai nhóm
người Do thái khá quan trọng, vào thời ấy, nếu đem so với nhóm thứ ba. Hai nhóm
đầu, là những người đại diện cho cộng đoàn Qumran.
Nhóm thứ ba tượng trưng cho đám Biệt Phái, rất Pharisêu.
Qumran là nơi ta
tìm ra Cảo Bản Biển Chết. Ở nơi đó, thấy có cộng đoàn sống chia cách/tách rời xã
hội mình đang sống. Tách và rời, khỏi đền Giêrusalem để rồi đi vào chốn sa mạc
lặng lẽ, trong hang động. Hang động họ sống, quanh Qumran,
bị người La Mã phá huỷ vào thời chinh chiến suốt từ năm 68 đến 70 sau Công
nguyên. Nên, cũng chẳng tồn tại khi thánh Matthêu viết lên Tin Mừng của thánh
nhân vào niên biểu thứ 85. Và, thánh nhân cũng thừa biết là nhóm người này từng
chôn giấu yến bạc đạo đức ở đâu đó, trong hầm tối của chính mnình.
Pharisêu là
nhóm người có mặt nhiều hồi thánh Mat-thêu còn sống. Họ là những đối tác chuyên
kình chống lại thánh nhân. Vào dạo trước, Đức Giêsu cũng có cảm tình với những
người này. Và ngược lại, họ cũng biết điều với Ngài trong nhiều chuyện. Nhưng
40, 50 năm về sau, thế giới của họ đã biến đổi một cách khác hẳn. Sau ngày đền
thờ Giêrusalem bị phá huỷ, đám Pharisêu lại trổi lên thành nhóm lãnh đạo dân Do
Thái quyết tập hợp lại với cuộc sống ở ngoài đời. Trước thời thánh Mat-thêu
sống, đám Pharisêu đã củng cố chỗ đứng của họ và phô trương cho mọi người thấy cung
cách chỉ biết sống theo luật và luật. Và, cũng từ đó, họ tìm cách rút khỏi tầm
ảnh hưởng của người La Mã để còn áp đặt mọi chuyện lên dân con của chính mình.
Nói theo ngôn từ đạo đức, thì thời đó, đám Pharisêu là nhóm hướng dẫn việc đạo
hạnh quyết đưa mọi người rời thế giới thực tại thời bấy giờ. Họ chính là những
người cột chặt tinh thần câu nệ lề luật sau hàng rào bảo vệ của Torah.
Thánh
Mat-thêu chẳng ưa gì nhóm người này. Thánh nhân chỉ muốn sống theo tinh thần
của Đức Giêsu chủ trương bằng vào tương quan cởi mở, gọn gàng và nhẹ nhàng hơn.
Thánh nhân chủ trương tinh thần biết sử dụng các “nén bạc” do Đức Giêsu và Thần
Khí Ngài tặng ban. “Nén bạc” nói ở dụ ngôn hôm nay, không chỉ mang nghĩa kim tiền/của
cải thôi; nhưng, còn biểu trưng quà tặng về năng khiếu như khi ta đề cập đến kỹ
năng âm nhạc, ngôn ngữ, toán học hoặc những thứ khác.
Thông điệp
thánh Mát-thêu gửi mọi người bằng dụ ngôn hôm nay, luôn mang tính giản đơn. Thẳng
thắn. Trực tiếp. Ý thánh sử muốn nói, là: ân huệ Chúa ban cho mọi người vẫn
thừa thãi, tràn đầy, không cạn tiệt. Nếu ta lại đem chôn ân huệ Ngài ban xuống
đất, khác nào người đầy tớ vô tích sự,kể ở trên.
Truyện dụ
ngôn hôm nay còn làm người đọc liên tưởng đến chuyện “Trân Châu Cảng”. Ở cảng
này, tầu thuyền neo đậu đâu nào có nghĩa mình sẽ an toàn thoải mái mãi suốt đời?
Chỉ hiện diện sống ở đó thôi, đâu có nghĩa mình sẽ được an toàn cả phần linh thánh
lẫn mặt đời.
Tình tự chuyên
lo sống an toàn, được ghi rõ ở nhiều thông điệp được Đức đương kim Giáo Hoàng
Bênêđíchtô XVI tỏ cho giới trẻ biết trên báo đài lẫn Đại Hội Giới Trẻ ở Cologne, Sydney lẫn Madrid. Đức Giáo Hoàng đề cập đến Đạo Chúa như
tình yêu cao cả, và mặc khải quý hiếm. Đối với ngài, làm tín hữu Đức Kitô là nhận
lãnh ân huệ cao cả và quý hiếm Chúa vẫn ban. Ân huệ Ngài ban cho mọi người, sẽ
là đôi cánh tiên để ta bay cao vút, lên cõi tiên. Ân huệ Chúa ban, còn là sứ
mạng gửi đến mọi tín hữu. Sứ mạng ấy, là dự án để ta thực hiện vào mai ngày.
Là, đem chân, thiện, mỹ vào cuộc sống rất thực để rồi ta tập trung đời mình vào
những gì quan yếu, thiết thực thôi.
Đức Giáo
Hoàng từng bảo: giả như Hội thánh mình biết sống thực như thế, ắt hẳn cuộc sống
của mình sẽ mãi mãi trẻ trung, suốt mọi thời. Có sống như thế, thánh hội của
Chúa sẽ không bao giờ trở nên chai lì, cằn cỗi. Bởi, Hội thánh là hội của các
thánh biết kết hiệp với Chúa, tức cội nguồn tuổi trẻ, rất sống động.
Nay, điều cần
là mỗi người và mọi người nên để cho qua đi tâm tư mỏi mệt và tâm tình nhiều huỷ
hoại. Để rồi, sẽ hướng nhìn về phía về nơi có sự cao cả đích thực là di sản của
Đạo Chúa. Đó, còn là “nén bạc” mà Chủ Tể vũ trụ đã trao cho mỗi một người,
trong cuộc đời. Đó, là sứ mệnh khiến ta chọn lựa. Chấp nhận. Sứ mệnh, là: sử
dụng nén bạc Ngài trao hầu xây dựng tương lai mai ngày cho thế giới mình chung
sống. Thế nên, hãy dấn bước thâm trầm mà tiến tới. Tiến về phía trước mặt, dù
đời người muôn mặt, để còn sinh lợi “nén bạc’ hiếm quý Chúa trao ban, cho ta.
Cho mỗi người.
Trong tâm
tình cảm kích chấp nhận nén bạc Ngài ban, ta lại sẽ ngâm nga lời ca, còn đậm
nét:
“Xa tít tắp từ rừng xưa cổ tích,
Cỏ
xanh mềm ảo hoá giấc phù vân.
Mùa
thu ấy đôi mắt buồn man mác
Ngong
ngóng chờ hoài niệm hoá rêu xanh.”
(Vương
Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)
Nguyệt
Quỳnh đây, có thể không là “nén bạc” quý hiếm Chúa gửi gắm. Nhưng, vẫn là huệ ân/ân
huệ mọi người trông ngóng biến thành những gì có lợi cho mình. Cho mọi người. Ở
đời.
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh.
Mai Tá
lược dịch.
No comments:
Post a Comment