Suy niệm
Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay Năm B 18.3.2012
“Anh lánh mùa xuân, nép cửa sầu,”
“Đêm nằm ghe gió, lạnh canh thâu.”
(dẫn từ thơ Đinh
Hùng)
Ga 3: 14-21
Cửa sầu anh nép, cơn gió anh nghe
suốt canh thâu, kể thì cũng lạnh bởi anh cứ sống theo khuôn phép âu sầu kiểu cổ
xưa. Nhà Đạo mình, nay chỉ cho anh cung cách giản đơn để anh vui, với trình
thuật.
Trình thuật thánh sử nay ghi, là ghi
về tin rất mừng Chúa Yêu Thương thế giới/thế gian, biết chừng nào. Chúa rất yêu
trần thế, nhưng ta lại cứ hỏi: Chúa có chấp nhận lối sống thế trần của ta
không? Và cung cách nguyện cầu kiểu người trần có làm Chúa bận tâm mà lắng nghe
không? Đó chính là vấn đề mà Hội thánh nay cần đặt lại, chứ đừng noi theo cổ
tục lập đi lập lại theo kiểu xưa cũ chẳng có gì đổi mới.
Đan viện phụ Armand Vielleux nước Bỉ
có lần từng nhận định:“Nhờ Công Đồng
Vatican II, mà Hội thánh không còn lên án thế giới đương đại nữa. Từ khi ấy,
thánh hội nay đã biết mở rộng lòng mình, ít nhất là trên nguyên tắc, để đối
thoại với thế gian ở ngoài đời. Từ bấy đến nay, lại thấy Hội thánh cứ xử sự khá
tiêu cực với trần thế. Đấy là cung cách của thánh hội coi thế trần như một thất
bại, hết đường chữa. Bởi thế nên, đôi lúc Hội thánh cũng trở lại tác tạo Đạo
Chúa theo cách thúc đẩy mọi người lánh xa thế giới bên ngoài để rồi phủ tay với
trách nhiệm về những ảnh hưởng liên luỵ với con dân của mình. Nhiều vị giống
như tôi, vẫn tin rằng: Hội thánh được bảo ban/ủy thác làm men sống trong đống
bột là cốt để khuấy động/vực dậy thế giới. Có như thế, mới tạo nên không chỉ
một giáo hội có canh tân mà cả xã hội cũng được đổi mới nữa. Xã hội, là hội của
nhóm người sống ở thiên niên kỷ thứ ba, cũng rất mới.”
Nhiều người cứ tưởng mình vẫn “kiếm tìm”
Chúa bằng cách tạo lối sống lành-thánh thoát ảnh hưởng có từ thế giới trần tục,
rất ở ngoài. Họ tưởng, có làm thế mới giúp cho thế giới đến gần Chúa hơn! Họ cũng tưởng, họ đã tìm Chúa,
nhưng chưa gặp. Nên, cứ nghĩ rằng Chúa của “mình” đang ở đâu đó, cũng gần thôi.
Nhưng lại không biết rằng, các đấng nhân-hiền thánh-thiện nay tỏ rõ: ta chẳng
nên tìm Chúa theo kiểu cổ xưa. Bởi, chính Chúa đã gặp mọi người ngay trong đời
mình mà người xưa vẫn gọi đó là thế giới gian trần.
“Chúa của mình” cũng có cảm nghiệm
sống, giống như ta. Ngài không kiếm tìm Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn có chức năng
Cha trao phó, ngõ hầu giúp Ngài thực hiện thành công sứ vụ cứu độ. Kinh nghiệm
dân con Chúa, cũng thế. Các thánh-nhân hiền-lành đều rõ: kiếm tìm Chúa, không
là việc phải lẽ/đúng đắn để tả cho Chúa biết nơi mình sống, và hành xử. Mà,
chính Chúa tìm gặp hết mọi người qua đời sống hằng ngày của họ. Và, Chúa vẫn đổ
tràn trên con người mọi ơn lành qua những sự thể bé nhỏ ở đời. Lúc nào Ngài
cũng hiện diện với mọi người, mà con người không biết, đấy thôi.
Thời của Chúa, dân chúng sống theo
cung cách mà người thời gọi đó là thế giới tốt lành, có nghi tiết phụng thờ,
suy tôn, tế tự. Nhưng buồn thay, trọng tâm cuộc sống của người thời đó, chỉ
quẩn quanh với sinh hoạt đọc kinh cầu nguyện, và tưởng thế là đủ. Với họ, cung
cách phụng thờ Chúa qua tế lễ/cầu kinh quan trọng hơn lối sống đời thường, mà
người người vẫn đang sống. Thực tế đời thường, người người không nhận ra mình
đang đi vào quan hệ mật thiết với Chúa. Cả người “ngoài luồng” hoặc sống bên
ngoài Do thái, cũng thế. Tức: không khác người đi Đạo là mấy. Lâu nay ta không còn
gọi họ là người “ngoại” hoặc “bên lương”/“ngoài luồng” nữa, nhưng coi họ như
bạn đạo thân thương, vẫn nối kết.
Bằng cách này cách khác, người
“ngoài luồng” cũng biết tế lễ/phụng thờ đấng tối cao của mình, dù với người Đạo
Chúa, các vị chỉ là ngẫu thần, thôi. Với Đức Giêsu, trọng tậm cuộc sống không
là lòng đạo thánh thiện hoặc sinh hoạt phụng vụ với lễ lạy, kinh kệ, kiệu rước,
chầu lượt vv.. cũng không bằng hành xử đúng đắn với người đời, ở đời. Với Chúa,
dù Ngài có đến đền thánh cũng đâu để cử hành việc phụng thờ, hoặc cúng kiếng! Làm
thế, Ngài làm nhiều lắm cũng chỉ hơn một lần trong đời. Và, Ngài có nguyện cầu
theo nghĩa lâm râm đọc kinh cũng không nhiều, nếu so với số đông nhóm người Pharisêu
hoặc Galilê thời ấy.
Thời tiên khởi -ít là sau ngày đền thờ bị phá vào thập niên
70- tín hữu Đạo Chúa cũng giống Ngài,
tức: hành xử khác lối sống đạo mà người La Mã thời ấy gọi là “vô thần”. Đức Giêsu
thực sự khởi đầu cách mạng sống rất riêng, nhằm đưa dân con Ngài vào với cuộc
sống rất Đạo. Sống riêng tư giữ Đạo, là sống rất mực với thế giới đời thường,
vào mọi ngày. Chúa có thói quen tiếp cận Cha Ngài qua công việc bình thường,
mỗi ngày. Và, Ngài yêu thích những chuyện như thế. Thánh Gioan nhận ra chuyện
ấy, nên đã viết: “Thiên Chúa yêu thế gian
đến độ ban Con Một Ngài, để ai tin vào Con của Ngài sẽ không chết, nhưng sống
muôn đời.” (Ga 3: 16). Và Cha làm thế thật.
Chúa Cha, là Chúa của Đức Giêsu và
của ta nữa. Ngài là Thiên-Chúa-Của-Niềm-Vui. Đây là danh xưng đích thật của
Chúa. Danh xưng, khác mọi ngôn từ tán tụng ta vẫn nói. Chúa không toàn năng
theo nghĩa con người hiểu. Ngài có thể làm mọi thứ, mọi sự. Đúng là Ngài làm
mọi việc trong thương yêu, không vì ta là nguời tốt lành, xứng đáng. Ngài không
ở nơi xa cách đến độ ta có gặp cũng phải chờ cho đến lúc chết, mới gặp được.
Nhưng, Ngài đang ở đây. Nơi này. Cả sau vườn nhà của ta nữa. Ngài vui lòng ở
với ta, cả vào tình huống ta tỏ ra bê tha, kỳ lạ mỗi ngày và mọi ngày, đến khi
chết.
Đó là cách sống “xoáy vào lòng đời”
mà mọi người nhận ra được trong sống Đạo. Đó, là cung cách để ta có thể dứt bỏ
quan niệm xưa/cổ về sống đời mà phần đông người Công giáo vẫn lầm lẫn. Cung
cách sống Đạo thực, là thử thách lối sống của con dân đi Đạo. Sống Đạo, là tìm
xem thứ tự ưu tiên đặt nơi đâu, hành xử thế nào trong đời mình. Cung cách ấy,
có thể phá bỏ mục tiêu ta vẫn nhắm.
Thông điệp Chúa gửi qua cách ấy, là:
“hãy quẳng gánh lo đi!” mà vui sống đời thường, với mọi người. Cũng nên gọi đó
là: niềm tin Nước Trời chụp được ta ngay từ ngoài và lấy đi mọi âu lo vẫn có
nơi ta. Nơi mọi sự. Thật sự, Chúa hiện diện cả ở nơi sự việc không mang tính
đạo hạnh. Bởi, niềm tin là lòng can đảm dám đồng thuận với những chuyện mà ta
không cần biết việc ấy đòi ta phải có những gì. Làm gì.
Sống Đạo thực, là cung cách đưa ta
vào tình huống ra khỏi bối cảnh mà người người gọi là “chốn thánh thiêng”, vẫn
đóng khung nó rồi đặt lên bàn để thờ. Kỳ thực, sống Đạo thực là quà tặng, là sự
kinh ngạc, khám phá đến độ sửng sốt. Bởi lâu nay, ta được thừa tự bầu khí lễ mễ
với nghi thức phụng tự hoặc lòng sốt sắng có từ thời Thập Tự Chinh. Nay, cũng
nên chuyển dời nó vào với cuộc sống thường nhật, sống giản đơn như mọi người.
Có sống thực tình như thế, dân con ở đời mới có được ý nghĩa của tự do con cái
Chúa. Và qua đó, mới đạt được ý nghĩa của sự ứng đáp thân thương trong thế giới
rộng lớn.
Càng ngày ta càng nhận ra được rằng:
hữu thể “người”, tự bản chất chứ không do lòng sốt sắng đọc kinh, nhưng là “đền
thờ” Chúa Thánh Thần ngự. Bởi Chúa yêu thương người “thế gian” có cuộc sống
bình dị thường nhật, nên Ngài muốn con dân Ngài sống giản đơn trong đời thường,
giống mọi người.
Vậy, ta làm gì với nghi thức phụng
tự và biểu tượng lâu nay ta vẫn có, trong Đạo?
Câu trả lời đúng nhất, là: cứ duy
trì các sinh hoạt ấy, nhưng đừng đặt nặng ưu tiên hàng đầu, ở đời mình. Cứ giữ
như thế, nhưng sống đời thường nhật cho thoải mái, vô tư chung vui hoà đồng với
mọi người dù họ là người “ngoài Đạo”. Và, hãy để người đời biết là ta cũng sống
giản đơn như họ, thôi.
Tuy nhiên, điều trớ trêu, là: nhiều
người vẫn không thoải mái với chuyện này. Họ cứ nghĩ: chuyện sống ở đời như mọi
người tự nó đã không tốt, nên Chúa Mẹ không thể nào cùng sống với ta. Có người
lại nghĩ rằng: lối sống giản đơn, bình thường ở đời, là kết quả của thứ triết
lý hiện sinh, tục phàm lâu nay vẫn loại trừ Chúa. Thế nên, họ đặt ra hai qui
cách: một, là đả phá lối sống không “lòng Đạo” (hiểu theo nghĩa đọc kinh cho
nhiều, đi lễ rất thường) tức: lên án người khác đạo, khác chính kiến, tập tục.
Hai, là tìm cách tránh xa những người “bê trễ” như thế.
Không ai chối cãi sự thể là Chúa
đang hiện hữu với mọi người. Cũng chẳng ai nghi ngờ Lời Chúa từng dạy đã và
đang gây ảnh hưởng lên mọi sự, như ta thấy. Xác tín việc Chúa hiện diện trong đời,
là chuyện bình thường đến độ chẳng ai cần lập lại chuyện đó, mới củng cố được
niềm tin. Niềm tin của ta lâu nay vẫn hỗ trợ để cho tín ấy được Sự thực, con
người nhận thức Chúa hiện diện và cùng sống với ta, là chuyện thường ngày, ở
đời. Ai cũng hiểu, con người hiện hữu như một thực thể có tâm-linh ngự trị
trong thân xác. Chỉ khi chết, ta mới hiểu rõ hơn rằng:hữu thể là bản thể hiện
diện trong nếp sống đơn giản, khả thi.
Đó không là lý tưởng, mà là sự thực
hiện hữu. Vì, kà lý tưởng nên chẳng có gì khó để đạt được chuyện đó. Nên, đừng
nghĩ mình phải luyện tập ghê lắm mới đạt mục đích. Tốt hơn, đừng nên nghĩ mình
có thể thực hiện được cả những hông thể làm. Nhưng, cứ sống và cứ làm bất cứ gì
“trong tầm tay” bằng tư thế xuôi theo giòng chảy mình có hoặc không có. Bởi,
không phải lúc nào mình cũng suy nghĩ như bậc thánh hiền. Cố gắng lắm, cũng chỉ
đi đến thất bại hoặc nghi ngờ mình có mắc lỗi, mới không làm nổi việc đạo, tức
bị ám ảnh phải làm cho được chuyện không thể. Học giả Jean-Luc Marion có nói: “Hội thánh, nay thấm mệt nên không còn áp
đặt lên xã hội ý niệm Thiên Chúa đang tồn tại, hiện hữu với mọi người ở đời.”
Xã hội, nay nhờ bản năng vốn có, đã
hội tụ những người biết nhận thức và tin tưởng nhau để diễn bày xác tín chung
của họ. Đó, là “đạo cởi mở” đi vào lòng người. Ít nhiều, ta vẫn cần lòng Đạo để
thích nghi với cuộc sống. Đạo giáo, thật rất tốt cho ta. Nhưng, không thể bảo:
Đạo là điều tốt cho người khác, bởi mọi người chúng ta đều khác biệt, trong nếp
sống.
Trong cuộc sống, Thiên-Chúa-Của-Niềm-Vui
đang tỏ lộ sự vui mừng nơi cuộc sống mọi người để nói cho ta biết: sống giản
Cảm nhận điều này, tưởng cũng nên
ngâm tiếp lời thơ vang còn để ngỏ:
“Gặp nhau, nắm chặt tay lần cuối,
Anh khép
hàng mi, chẳng nguyện cầu.”
(Đinh Hùng – Cặp Mắt Ngày Xưa)
Nắm chặt tay khi gặp gỡ, nhà thơ nay
nắm rất chặt; rồi sẽ khép hàng mi mà thưởng thức. Tức, niềm yêu thương Chúa phú
ban mà chẳng cần nguyện cầu, kinh kệ suốt năm canh mùa sám hối, chay tịnh.
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –
Mai Tá phỏng dịch
No comments:
Post a Comment