Suy niệm
Lời Ngài đọc trong tuần Thứ Ba Mùa Chay năm C 03.3.2013
“Một thời mây biếc đã trôi qua,”
“Nay tưởng cây vàng lại nở hoa.”
(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Lk 13: 1-9
Cây vàng hôm trước có nở hoa, đâu vì
mây biếc đã trôi qua! Cây vả hôm nay đà khô đẹt, cũng chẳng do Chúa quở trách mới
vừa qua, như trình thuật hôm nay còn kể lại.
Trình thuật, thánh Luca nay kể về
cây vả, một loại cây vẫn thấy đầy đường ở Israel. Cây vả bị Chúa chúc dữ còn ám chỉ
rất nhiều điều. Điều trước tiên về cây vả, là cây gặp thấy ở vùng Địa Trung
Hải, từ nhiều năm. Có tài liệu bảo rằng: từ 11,500 năm nay, người Trung Đông
thay đổi nếp sống kể từ ngày lo thu gom hột giống của các cây dại rồi thuần
phục chúng biến thành cây sinh lợi.
Khai quật Qumran ở Gilgal, gần Giêricô khi xưa, đã đưa
ra bằng chứng cho thấy: “vả” có mặt ở vùng này suốt 11, 400 năm. Người xưa có
nói: chỉ cần chặt cành vả cắm xuống đất, sau một thời gian nó sẽ đâm chồi sinh hoa
trái cho mọi người. Có người còn bảo: “vả”, là loài thực vật đầu tiên được con
người trồng trọt, thế nên mới có câu hát: “Thuở
đầu đời người thấy cây vả…”.
“Vả”, cao từ 3 đến 9 thước. Tàn nó
xoè rộng hơn cả chiều cao. Có loại “vả” mọc vút cao hơn 10 thước. Mỗi cây mang dáng
vẻ riêng, có lá cành xum xuê, mỗi năm cho đến 2 vụ mùa, rất nhiều trái. Vụ mùa
chính là vào cuối hạ hoặc chớm thu. “Vả đực”, vẫn có trái; nhưng trái hơi khô
và chẳng mùi vị. Trong khi đó, trái “vả” từ cây cái lại rất ngọt, nhiều nước
cốt. Trái “vả” nào sống sượng không thích hợp bữa ăn ngày Sabát chỉ đáng quăng
bỏ cho người nghèo nhặt nhạnh.
Giống “vả” đôi lúc cũng cho hoa trái
rất sớm; được như thế, là nhờ vụ mùa nở rộ vào xuân mùa năm trước. Có văn bản
lịch sử còn cho biết: nhiều năm cây “vả” đực lại cho trái đến 4 vụ mùa; đôi khi
nó không trổ cành lá nào hết. Thành thử, “vả” là loại cây cho trái sớm/muộn còn
tùy vào nhiều thứ, nhất là thời tiết. Có khi cả lá lẫn trái “vả” đều đâm chồi trổ
sinh cùng một lúc. Có lúc, người ta còn nhờ lá “vả” để biết trước vụ mùa sắp
tới có đạt kết quả hay không, hoặc năm đó sẽ không có vụ mùa nào hết.
Sách Đệ Nhị Luật, nói về Đất Lành Chúa
hứa cho dân con Israel là “miền đất có
lúa mì, lúa mạch, cây nho, cây vả, cây lựu, miền đất có cây ô-liu để ép dầu và
có mật ong, miền đất ở đó anh (em) sẽ ăn bánh mà không bị hạn chế.” (ĐNL 8:
8) Ở sách tiên tri Giêrêmia, Giavê Thiên Chúa lại cũng nói: “Ta quyết sẽ thu về, không để trái nào trên
cây nho, không để trái nào trên cây vả, cả lá cây cũng phải héo tàn, vì Ta sẽ
trao chúng cho những kẻ qua đường.” (Giê 8: 13) Cũng trong cùng chiều hướng
như thế, tiên tri Habakhúc lại thêm vào: “Thật
thế, cây vả không còn đâm bông nữa, cả vườn nho không được trái nào. Quả ô-liu,
đợi hoài không thấy, ruộng đồng chẳng đem lại gì ăn.” (Hab 3: 17)
Ở đoạn 23-29, sách Giêrêmia lại thấy
sử dụng hình ảnh cây “vả” để nói về lưu đày và cuộc “xuất hành” về đất hứa. Ngay
tại Giêrusalem, lại cũng thấy nhiều người được sánh tày như cây “vả” thối vữa
không đâm chồi nẩy lộc, chỉ đáng bứt gốc nhổ bỏ, thôi. Tuy thế, người lành
thánh như cây “vả” tốt tươi từng trở về sau lưu đày lại “hiểu biết kính sợ Chúa”
nên được tháp tùng Chúa đi vào Giao ước, đáp ứng lại ân huệ Ngài ban bằng cả
tấm lòng thành thật.
Thánh Mátthêu cũng sử dụng cây “vả”
để diễn tả hiện trạng của một số người Do thái như đoạn Tin Mừng 21 câu 19 có
nói: “Trông thấy cây vả bên đường, Ngài đến
gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi. Nên Ngài nói: "Từ nay,
không bao giờ ngươi sinh trái nữa!" Cây vả chết khô ngay lập tức. Thấy
vậy, các môn đệ ngạc nhiên hỏi: "Sao cây vả lại chết khô ngay tức thì như
thế?" Thêm nữa, thánh Mátthêu còn ghi rõ
ở đoạn khác: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả
mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa
hè đã đến gần.” (Mt 24: 32)
Tin Mừng Thánh Luca hôm nay cũng dùng
văn bản do thánh Mátthêu viết rồi theo phong cách/thể loại của thánh-nhân lại
kể rõ từng chi tiết: “Người kia có cây vả
trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người
làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không
thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? Nhưng người làm vườn đáp:
"Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và
bón phân cho nó.May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó
đi." (Lc 13: 6-9)
Đoạn 19 câu 29 Tin Mừng, thánh Luca
để Đức Giêsu dùng dụ ngôn cây vả vào lúc Ngài đến với Giêrusalem, qua Bết-Pha-Ghê
và Bê-ta-ni-a, nên nói rõ: “Khi đến gần
làng Bết-pha-ghê và làng Bê-ta-ni-a, bên triền núi gọi là núi Ô-liu, Người sai
hai môn đệ và bảo: "Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một
con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó
đi.” Như thế nghĩa là: Ngài sửa soạn cho Lễ Lá mà vào thành Giêrusalem, gần
Lễ Vượt Qua. Địa danh Bết-Pha-ghê có nghĩa là “nhà có cây vả chưa kịp chín.”
Gọi thế là bởi, mùa đó chưa là mùa hái “vả”, và cũng chưa là mùa “vả” trổ nụ
đơm hoa.
Địa điểm kể truyện lại nói là quanh
núi Ô-liu. Như thế, phải chăng bối cảnh sự việc diễn ra ở trên núi Ô-liu? Thật
ra, chỉ một vùng đáng kể ở quanh đó là có ô-liu bọc quanh cây “vả” không trái,
đó là vùng Ghét-sê-ma-ni thôi.
Ở Ghét-sê-ma-ni, Chúa cảm nghiệm giờ
phút khổ đau/mệt mỏi cả về tinh thần lẫn thể xác theo cung cách rất cực kỳ. Cực
mệt, đến độ Ngài phải thốt lên lời, âu cũng là chuyện ít thấy. Ở Tin Mừng thánh
Máccô, Đức Giêsu còn lớn tiếng kêu vời Chúa Cha đến tiếp cứu. Tuy nhiên, dù
Ngài có kêu hoặc có vời thì Chúa Cha vẫn im hơi lặng tiếng, chẳng đáp từ. Thành
thử, lối nói theo kiểu chúc dữ cây “vả” ở giữa đường là cung cách diễn tả cơn
đau cực kỳ vào lúc Ngài hấp hối.
Với thánh Mátthêu, Đức Giêsu lại nói
trực tiếp với cây vả, là: “Từ nay, không
bao giờ ngươi có trái nữa!" Và, cây “vả” đã chết khô ngay lập tức.” (Mt
21: 19) cũng hệt như lời nguyền/chúc dữ, không chỉ cho cây “vả” mà thôi, nhưng cho
cả những gì là kết quả tích cực dù ở hoàn cảnh nào cũng thế. Điều đó cho thấy:
Chúa cảm nghiệm đích thực về sự cực kỳ, tột cùng của con người.
Ở Tin Mừng thánh Luca, Đức Giêsu
muốn cho cây “vả” bị đốn/chặt đồ bỏ đi, tức: Ngài muốn nó không bị bật gốc khỏi
mặt đất. Điều đó dẫn đến thắc mắc: tại sao mọi sự phải đâm hoa sinh trái trước
sự việc đau thương thống khổ của thập giá?
Một lần nữa, ở Tin Mừng thánh
Mátthêu, Đức Giêsu kể cho tông đồ kém lòng tin tưởng biết mình phải có niềm tin
vững mạnh và nguyện cầu mới được như thế, cả vào khi các thánh phải đối đầu với
hoàn cảnh khổ đau rất cực kỳ, tựa như Chúa.
Với thánh Luca, đây lại mang ý nghĩa
một đề nghị: mọi người cần có lòng kiên nhẫn kéo dài nhiều tháng ngày. Khi ta
nói với Đức Giêsu tương tự như hoàn cảnh xảy đến nơi vườn Ghét-sê-ma-ni, là ta nói
với Ghét-sê-ma-ni bé nhỏ của chính ta. Và, như thể cũng bảo rằng: “Ngay tôi đây, cũng sẽ làm được như thế,
cũng thế thôi.”
Có bao giờ những người như ta cảm
thấy như mình chẳng có gì là cần thiết, cả khi mình thật sự rất cần những điều như
thế, không? Sống ở hoàn cảnh tương tự, ta gọi là sống có kiên nhẫn. Đó, còn là
cung cách để ta sống theo đường lối sẻ san có kiên nhẫn như Chúa từng sống, chí
ít là vào mùa Chay.
Trong cảm nghiệm những điều như thế,
ta lại ngâm lên lời thi ca đầy chất thơ và nhạc, mà rằng:
“Một thời mây biếc đã trôi qua,”
“Nay tưởng cây vàng lại nở hoa.”
Em chẳng mơ gì, tôi chẳng nói,
Đôi hồn không biết có
nhìn xa?”
(Đinh Hùng – Bướm Xuân)
Cứ tưởng cây vàng, cây “vả” đã nở
hoa, cả khi “đau khổ tình chết lặng” đến như thế, phải chăng đó cũng là cảnh
tình của nhiều người, ở mọi nơi?
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –
Mai Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment