Suy tư Tin Mừng Chúa
nhật thứ 7 thường niên năm A 23.02.2014
“Ta lủi
thủi đi sâu vào cõi mất”
“Hồn rã rời, thể chất hoá sương băng.”
(Dẫn từ
thơ Tế Hanh)
Mat
5: 38-48
Nhà thơ, xưa nay lủi thủi đi vào cõi
mất, rất rã rời. Nhà Đạo bây giờ hiên ngang tiến bước chốn vui mừng, dù tháng
ngày mình sống rất miên man.
Miên man
sống như trình thuật hôm nay thay đổi toàn bộ cuộc đời của nhiều người. Lời
Chúa mặc khải đã trở thành cuộc cách mạng đối với nhiều người, và riêng tôi
từng nhớ lại Lời Chúa nói: “Hãy trở nên
toàn thiện như Cha các người trên trời là Đấng Toàn Thiện”. Tôi nhận ra đây
là lời khích lệ hơn là luận cứ cứng ngắc, không sai sót. Cũng không hẳn là yêu
cầu, hoặc mời gọi.
Một hôm
ngồi trong căn phòng nhỏ ở Oxford, tôi nhận ra rằng ở tiếng Hy Lạp, cụm từ ‘teleios’ vẫn được các dịch giả Kinh
thánh chuyển thành hình-dung-từ ”toàn hảo/toàn
thiện”, để áp dụng cho con người. Điều này có nghĩa: người ấy thật sự chín
chắn. Tức, có khả năng thành đạt mọi thứ, trong mọi chuyện.
Chúa đem
đến cho ta một hình ảnh Thiên Chúa là tất cả. Ngài là Đấng khả năng làm tất cả.
Nói thế không có ý bảo rằng Ngài vô cảm hoặc cứng ngắc! Tin Mừng có chỗ nói:
“Cha các ngươi trên trời đã cho mặt trời mọc trên kẻ xấu cũng như người lành;
và Ngài đổ mưa xuống cho người luơng thiện lẫn kẻ bất lương.” Và Chúa dạy ta
sống toàn thiện như đáng ra ta phải sống như thế để mọi người tôn trọng.
Và, điều
này đã nổ bùng trong tôi, như quả bom. Chúng ta là tông đồ chín chắn, rất
trưởng thành bằng cách bắt chước Chúa là không cầm giữ lại ánh sáng mặt trời
ban sự sống và làn mưa đổ xuống trên đầu trên cổ người xấu xa, tồi tệ, bất
lương. Chúa không làm tắt ngúm cuộc sống của con người chỉ vì họ là kẻ xấu hoặc
địch thù của Ngài. Và, ta trở nên giống hình ảnh của Ngài, ở điểm này. Và, đó
là lý do ta được dạy phải yêu mến kẻ thù mình.
Nói tóm
lại, tôi trở thành người Công giáo chủ trương hoà bình, đã từ lâu. Tôi tôn kính
Hội thánh vào ba thế kỷ đầu đời. Đó, là Hội thánh của các vị tử đạo dám chối từ
mọi nai nịt bằng súng ống. Trước đây, tôi rất khâm phục Martin Luther King và
coi ông như vị anh hùng của riêng tôi. Bởi, ông dám có những hoạt động bất bạo
động, theo tinh thần của Bài Giảng Trên Núi. Ông là người hoán cải được nước Mỹ
đầy những rẽ chia, kỳ thị. Lúc bấy giờ, tôi cũng như nhiều người tìm mua bức
ảnh đen trắng chụp hình mục sư King để treo tường, đặt ở trên cao nơi bàn làm
việc.
Về lại Úc,
tôi tham gia một số hoạt động chính trị, nhằm làm áp lực nhà cầm quyền Úc rút
quân khỏi Việt Nam. Còn lại, là chuyện lịch sử khá dài dòng. Lúc ấy, là lúc tôi
được bầu vào Thượng viện làm Bộ trưởng Tư Pháp suốt sáu năm. Mọi việc thông
suốt như một giòng chảy hài hoà. Và, tôi hài lòng được ở trên cao, rất quyền
thế. Lúc ấy tôi hiểu thế nào là người thực sự theo Chúa.
Và tôi như
ở trong cơn mê. Và, giấc mơ này đã tiêu tan vào tháng Giêng năm 1991, khi ấy
Thủ tướng đang cần phiếu ở Thượng viện để hỗ trợ cho việc bố trí lực lượng hải
quân được Liên Hiệp Quốc chấp thuận cho sử dụng quân đội nhằm đuổi quân lính
của Saddam Hussein khỏi Kuwait, là nơi quân đội ông ta tràn qua để chiếm
đóng.
Nói tóm,
sau một buổi cuối tuần đầy suy tư âu lo, tôi đã kết luận rằng mọi tiêu chuẩn để
đạt một cuộc chiến có chính nghĩa là phải bảo vệ người vô tội chống lại mọi
cuộc tấn kích và tôi bỏ phiếu thuận cho việc chủ trương này. Lúc ấy và cả bây
giờ tôi vẫn đoan chắc rằng chiến tranh Irak có được chính nghĩa là nhờ vào giáo
huấn của Hội thánh trong suốt 16 thế kỷ qua. Nhưng tim tôi vỡ đổ.
Bởi, tôi
nhận ra rằng tôi đã phản lại Lời Thày Chí Ái nói ở Bài Giảng Trên Núi. Và từ
đó, tôi đặt ảnh Martin Luther King quay vào tường, bởi tôi không thể chịu nổi
ánh mắt của ông cứ như đang trách móc tôi một điều gì, đến tận phần sâu lắng
trong tâm can. Tôi cũng chẳng dám mở Tin Mừng thánh Mát-thêu ra mà đọc, sợ gặp
phải đoạn Lời Chúa nói, như hôm nay.
Tôi vẫn
không tài nào tìm được sự bình yên trọn vẹn. Tôi tự an ủi mình bằng sự kiện
thấy rằng chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ II, bình thường vẫn là vị Giáo
hoàng rất cương quyết, vẫn có những cảm nghiệm, những giao-động ở tâm can và
đầu óc, vì từng vật lộn với những vấn đề tương tự. Không ai có thể đọc Hiến chế
Sự Sống Tin Mừng mà không phấn đấu (x. Hiến chế Evangelium Vitae #55)
Tôi mong
hai chuyện xảy đến. Thứ nhất, toàn thể Hội thánh phải phấn đấu với lời dạy của
Chúa khi Ngài bảo: “Các ngươi phải…” mà chữ “ngươi”
kia là ở số nhiều, tức cộng đoàn và toàn xã hội. Các nhà bình luận bảo thủ ở
Hoa Kỳ vẫn cứ coi lời khuyên bảo của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về chiến
tranh và xung đột như sự sai lầm chỉ do cung cách, ý thức hệ.
Không phải
thế. Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động nơi Hội thánh như cộng đoàn của các kẻ tin
vào Đức Kitô theo chiều hướng không như đã cảm nghiệm từ ba thế kỷ đầu. Thứ hai
nữa, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến điều đòi buộc ta phải cầu nguyện
cho những người đang làm hại ta. Nếu họ
là người xấu, hoặc kẻ công kích chỉ muốn làm hại kẻ vô tội, thì họ vẫn cần đến
lời nguyện cầu của ta.
Ta vẫn
phải cầu cho họ để họ được cứu khỏi tình trạng xấu xa, đầy bất nhẫn. Họ được
cứu khỏi ý thức hệ rất độc hại vẫn vùi họ dưới bùn đen của ác thần. Chính đó là
ý nghĩa tích cực của lời Chúa khuyên ta rất hôm nay, ở Tin Mừng.
Trong tâm tình đó, ta
cứ đọc lại lời thơ còn dang dở để thấy là nhà thơ kia đã từng than thở:
“Ta
lủi thủi đi sâu vào cõi mất,
Hồn
rã rời, thể-chất hoá sương băng.
Cho
đến lúc bómng đêm tràn mặt đất,
Người
mới hay nhân-loại thiếu tình Trăng.”
(Tế Hanh – Trăng Tàn)
Hôm nay,
dù trăng có tàn, nhân-loại có thiếu tình trăng đi nữa, vẫn còn đó tình Chúa
thương-yêu hết mọi người. Ngài vẫn đồng hành với mỗi người” để mọi người nhớ
mãi rằng: dù “bóng đêm có tràn mặt đất” như nhà thơ viết, nhưng sẽ không tràn
với những ai vẫn cứ tin Thiên-Chúa-là-Tình-Thương, với mọi người. Suốt mọi
thời.
Lm Richard
Leonard sj
Mai Tá
lược dịch
No comments:
Post a Comment